02-01-2013, 12:07 PM
Các xét nghiệm đất, nước, rau, ruồi để đánh giá tình hình giun sán!
Đối với giun sán y học, thường xét nghiệm đất, nước, rau, ruồi để đánh giá tình hình giun sán. Sau khi phát hiện trứng hay ấu trùng giun sán, việc kết luận cần thận trọng vì nhiều loại giun sán không ký sinh ở người có hình thể rất tương tự với giun sán y học.
1. Xét nghiệm đất.
Có thể dùng đất bề mặt hay đất ở sâu để xét nghiệm. Nếu xét nghiệm phân ủ có thể dùng những kỹ thuật như xét nghiệm đất. Cổ điển thường dùng kỹ thuật Spindler để xét nghiệm những kỹ thuật này, đòi hỏi phương tiện và hóa chất phức tạp. Ở Việt Nam thường dùng kỹ thuật Đặng Văn Ngữ dẽ thực hiện hơn. Kỹ thuật Đặng Văn Ngữ cần một số trang bị khác với kỹ thuật Spindler và Gefter.
1.1. Kỹ thuật Đặng Văn Ngữ:
- Lấy mẫu đất: dùng chổi quét nhẹ mặt trên của chỗ đất cần xét nghiệm; nên quét vào buổi sáng. Đất thu hồi được phải trộn đều trước khi làm xét nghiệm.
- Mỗi mẫu lấy 5 - 10 g đất( đất đã được rây bỏ các cục đá, sỏi, que lẫn trong đất), cần phải cân, vì đây là một kỹ thuật định lượng. Cứ 5g đất thì trộn đều với 3g NaCl ( dùng muối ăn rang lên, không giã nhỏ).
- Trộn đất và muối thật đều trong phễu xét nghiệm, cốt làm cho đất xốp để trứng dẽ nổi và toàn bộ đất sẽ được thấm nước đều.
- Dùng ống hút rỏ 20ml dung dịch NaNO3 bão hòa, dùng que trộn đều thành hồ nhão.
- Dùng ống tập trung úp vào đáy phễu.
- Đặt ống và phễu ngược lại.
- Để một hệ thống rỏ giọt NaNO3 rỏ giọt từ từ theo bờ ống vào. Để cho tốc độ rỏ giọt thế nào trong 1 -2 h thì đầy miệng ống ( dung dịch NaNO3 bão hòa sẽ thấm qua lớp đất dễ dàng nhờ có muối làm xốp, mặt khác NaNO3 lại hòa tan thêm NaCl, tăng tỷ trọng từ D = 1,39 lên D = 1,45 tạo điều kiện cho trứng dễ nổi).
- Dùng vợt thu hồi khối lượng nước ở mặt trên của lỗ phễu. Hay có thể lấy 1 ml nước ở lỗ của phễu thấm qua giấy lọc mịn, rồi bỏ thêm glyxerin mà xét nghiệm.
Phương pháo xét nghiệm này so với các kỹ thuật khác có hiệu lực cao hơn, lại không dùng các hóa chất phức tạp.
1.2. Kỹ thuật Spindler:
Dùng antiformin 30% để tách trứng. Sau đó làm nổi trứng bằng natribicromat ( D= 1,35). Cuối cùng ly tâm vfa thu hồi trứng trên mặt nước.
1.3. Kỹ thuật Gefter.
Kỹ thuật này tách trứng bằng NaOH 5% (dùng máy lắc). Làm nổi trứng trong dung dịch NaNO3 ( D= 1,39). Ly tâm và thu hồi trứng bằng cách áp lá kính lên mặt ống ly tâm.
2. Xét nghiệm nước:
Nguồn nước nghiên cứu: có thể là nước sông, nước hồ, nước ao. nước giếng... Mỗi nguồn nước lấy ở nhiều địa điểm khác nhau. Ví dụ khi xét nghiệm nước sông thì lấy nước ở hai bên bờ, lấy ở giữa dòng. Mỗi mấu lấy 10-15 lít. Để dụng cụ lấy nước sâu 20-30 cm dưới mặt nước.
Các phương pháp xét nghiệm của Vacillova, Genhiedinoi: lọc nước qua màng lọc có lỗ đường kính 3-5 micromet. Do màng lọc kín nên nước khó chảy qua, bình lọc thường gắn liền với hệ thống rút chân không.
Các kỹ thuật trên tiến hành tương đối nhanh chóng và chính xác, nhưng các màng lọc đó ở Việt Nam hiện này không có nhiều. kỹ thuật này thường được áp dụng trong quân y trong điều kiện hành quân.
Kỹ thuật thông thường:
- Lấy các mẫu nước, đánh phèn để lắng trong 1 h.
- Gạn đổ nước trên.
- Lấy cặn đổ vào cốc có chân, để lắng 2-4h.
- Dùng ống hút lấy cặn xét nghiệm. Với mẫu nước phải xét nghiệm hết cặn.
3. Xét nghiệm rau.
Các kỹ thuật để phát hiện trứng gian sán ở rau có thể là kỹ thuật Stivel, thái nhỏ rau để xét nghiệm hay đơn giản rửa rau để xét nghiệm.
Lấy 500g rau rửa trong một thau nước chứa 2 lít nước, rửa từng lá, từng cuộng, không bỏ sót. Mỗi mẫu rau rửa 2-4 lần. Nước rửa để lắng 6- 10 h. Gạn lấy phần nước dưới, cho vào ống [/B]ly tâm: lấy cặn xét nghiệm. Tìm trứng giun ( khi xét nghiệm, nên trộn với vài giọt lugol trong 50% glyxerin để phát hiện bào nang)
4. Xét nghiệm ruồi.
4.1. Băt ruồi
Trong một vùng cần xét nghiệm nên bắt ruồi ở nhiều địa điểm. Băt ruồi có thể tiến hành theo các phương pháp : bẫy ruồi, đặt bả, vợt ruồi...
4.2. Xét nghiệm tìm trứng giun sán
Dùng cặp nhỏ cặp ruồi vào ống nghiệm ( nên cặp vào cánh), mỗi ống nghiệm cho chừng 10 can ruồi. Đổ thêm vào ống nghiệm 10ml rượu 70 độ, lắc mạnh trong 5 phút ( có thể lắc một lần nhiều ống nghiệm). Đổ thêm vào 10 ml nước cất, lại lắc mạnh trong 15 phút. Dùng cặp vợt ruồi ra hết. Cho vào ống ly tâm, hay có thể lắng cặn trong 2-3 h. Thu hồi cặn để xét nghiệm.
Nếu muốn tìm trứng giun sán trong cơ quan tiêu hóa của ruồi phải tiến hành mổ ruồi.
Đối với giun sán y học, thường xét nghiệm đất, nước, rau, ruồi để đánh giá tình hình giun sán. Sau khi phát hiện trứng hay ấu trùng giun sán, việc kết luận cần thận trọng vì nhiều loại giun sán không ký sinh ở người có hình thể rất tương tự với giun sán y học.
1. Xét nghiệm đất.
Có thể dùng đất bề mặt hay đất ở sâu để xét nghiệm. Nếu xét nghiệm phân ủ có thể dùng những kỹ thuật như xét nghiệm đất. Cổ điển thường dùng kỹ thuật Spindler để xét nghiệm những kỹ thuật này, đòi hỏi phương tiện và hóa chất phức tạp. Ở Việt Nam thường dùng kỹ thuật Đặng Văn Ngữ dẽ thực hiện hơn. Kỹ thuật Đặng Văn Ngữ cần một số trang bị khác với kỹ thuật Spindler và Gefter.
1.1. Kỹ thuật Đặng Văn Ngữ:
- Lấy mẫu đất: dùng chổi quét nhẹ mặt trên của chỗ đất cần xét nghiệm; nên quét vào buổi sáng. Đất thu hồi được phải trộn đều trước khi làm xét nghiệm.
- Mỗi mẫu lấy 5 - 10 g đất( đất đã được rây bỏ các cục đá, sỏi, que lẫn trong đất), cần phải cân, vì đây là một kỹ thuật định lượng. Cứ 5g đất thì trộn đều với 3g NaCl ( dùng muối ăn rang lên, không giã nhỏ).
- Trộn đất và muối thật đều trong phễu xét nghiệm, cốt làm cho đất xốp để trứng dẽ nổi và toàn bộ đất sẽ được thấm nước đều.
- Dùng ống hút rỏ 20ml dung dịch NaNO3 bão hòa, dùng que trộn đều thành hồ nhão.
- Dùng ống tập trung úp vào đáy phễu.
- Đặt ống và phễu ngược lại.
- Để một hệ thống rỏ giọt NaNO3 rỏ giọt từ từ theo bờ ống vào. Để cho tốc độ rỏ giọt thế nào trong 1 -2 h thì đầy miệng ống ( dung dịch NaNO3 bão hòa sẽ thấm qua lớp đất dễ dàng nhờ có muối làm xốp, mặt khác NaNO3 lại hòa tan thêm NaCl, tăng tỷ trọng từ D = 1,39 lên D = 1,45 tạo điều kiện cho trứng dễ nổi).
- Dùng vợt thu hồi khối lượng nước ở mặt trên của lỗ phễu. Hay có thể lấy 1 ml nước ở lỗ của phễu thấm qua giấy lọc mịn, rồi bỏ thêm glyxerin mà xét nghiệm.
Phương pháo xét nghiệm này so với các kỹ thuật khác có hiệu lực cao hơn, lại không dùng các hóa chất phức tạp.
1.2. Kỹ thuật Spindler:
Dùng antiformin 30% để tách trứng. Sau đó làm nổi trứng bằng natribicromat ( D= 1,35). Cuối cùng ly tâm vfa thu hồi trứng trên mặt nước.
1.3. Kỹ thuật Gefter.
Kỹ thuật này tách trứng bằng NaOH 5% (dùng máy lắc). Làm nổi trứng trong dung dịch NaNO3 ( D= 1,39). Ly tâm và thu hồi trứng bằng cách áp lá kính lên mặt ống ly tâm.
2. Xét nghiệm nước:
Nguồn nước nghiên cứu: có thể là nước sông, nước hồ, nước ao. nước giếng... Mỗi nguồn nước lấy ở nhiều địa điểm khác nhau. Ví dụ khi xét nghiệm nước sông thì lấy nước ở hai bên bờ, lấy ở giữa dòng. Mỗi mấu lấy 10-15 lít. Để dụng cụ lấy nước sâu 20-30 cm dưới mặt nước.
Các phương pháp xét nghiệm của Vacillova, Genhiedinoi: lọc nước qua màng lọc có lỗ đường kính 3-5 micromet. Do màng lọc kín nên nước khó chảy qua, bình lọc thường gắn liền với hệ thống rút chân không.
Các kỹ thuật trên tiến hành tương đối nhanh chóng và chính xác, nhưng các màng lọc đó ở Việt Nam hiện này không có nhiều. kỹ thuật này thường được áp dụng trong quân y trong điều kiện hành quân.
Kỹ thuật thông thường:
- Lấy các mẫu nước, đánh phèn để lắng trong 1 h.
- Gạn đổ nước trên.
- Lấy cặn đổ vào cốc có chân, để lắng 2-4h.
- Dùng ống hút lấy cặn xét nghiệm. Với mẫu nước phải xét nghiệm hết cặn.
3. Xét nghiệm rau.
Các kỹ thuật để phát hiện trứng gian sán ở rau có thể là kỹ thuật Stivel, thái nhỏ rau để xét nghiệm hay đơn giản rửa rau để xét nghiệm.
Lấy 500g rau rửa trong một thau nước chứa 2 lít nước, rửa từng lá, từng cuộng, không bỏ sót. Mỗi mẫu rau rửa 2-4 lần. Nước rửa để lắng 6- 10 h. Gạn lấy phần nước dưới, cho vào ống [/B]ly tâm: lấy cặn xét nghiệm. Tìm trứng giun ( khi xét nghiệm, nên trộn với vài giọt lugol trong 50% glyxerin để phát hiện bào nang)
4. Xét nghiệm ruồi.
4.1. Băt ruồi
Trong một vùng cần xét nghiệm nên bắt ruồi ở nhiều địa điểm. Băt ruồi có thể tiến hành theo các phương pháp : bẫy ruồi, đặt bả, vợt ruồi...
4.2. Xét nghiệm tìm trứng giun sán
Dùng cặp nhỏ cặp ruồi vào ống nghiệm ( nên cặp vào cánh), mỗi ống nghiệm cho chừng 10 can ruồi. Đổ thêm vào ống nghiệm 10ml rượu 70 độ, lắc mạnh trong 5 phút ( có thể lắc một lần nhiều ống nghiệm). Đổ thêm vào 10 ml nước cất, lại lắc mạnh trong 15 phút. Dùng cặp vợt ruồi ra hết. Cho vào ống ly tâm, hay có thể lắng cặn trong 2-3 h. Thu hồi cặn để xét nghiệm.
Nếu muốn tìm trứng giun sán trong cơ quan tiêu hóa của ruồi phải tiến hành mổ ruồi.