02-17-2021, 12:19 AM
I.NGUYÊN LÝ
Các amphetamine được gọi là các amin cường giao cảm vì chúng bắt chước tác động kích thích hệ thần kinh giao cảm. Những phân tử nhỏ này, dựa trên ß- phenylethylamine, có cấu trúc tương tự như catecholamine của cơ thể. Nhiều loại đã được tạo ra bằng cách thay thế bất cứ vị trí nào trên cấu trúc. Các amphetamine là chất kích thích thần kinh trung ương mạnh. Như vậy chúng có thể làm tăng sự tỉnh táo, hoạt động thể chất, và giảm sự thèm ăn. Các amphetamine có một số chỉ định giới hạn và được phê duyệt để sử dụng trong chứng ngủ rũ, và béo phì… Tuy nhiên, vì các chất kích thích thần kinh trung ương này mang lại cảm giác tự tin, hạnh phúc, và sảng khoái, nên chúng rất gây nghiện, bị lạm dụng rộng rãi, và do đó là các chất bị kiểm soát. Lạm dụng có thể dẫn đến các hậu quả về y tế, tâm lý và xã hội. Tác hại cho sức khỏe bao gồm mất trí nhớ, hung hăng, hành vi loạn thần kinh, tổn thương tim, suy dinh dưỡng, và các vấn đề răng miệng nghiêm trọng. Amphetamin có thể là một chất chuyển hóa của một số loại thuốc khác bao gồm methamphetamine. Thông thường khoảng 30 % được bài tiết dạng không đổi trong nước tiểu 24 giờ, nhưng có thể thay đổi tới con số 74 % trong nước tiểu acid và có thể giảm đến 1 % trong nước tiểu kiềm.
Xét nghiệm dựa trên sự tương tác động học các vi hạt trong dung dịch được đo bởi những thay đổi trong dẫn truyền ánh sáng. Trong trường hợp không có thuốc mẫu, thuốc liên hợp hòa tan gắn với vi hạt liên kết với kháng thể, tạo thành các vi hạt kết tập. Khi phản ứng kết tập thực hiện trong trường hợp không có thuốc mẫu, độ hấp thu tăng lên.
Khi mẫu nước tiểu chứa thuốc đang nghi ngờ, thuốc này cạnh tranh với dẫn xuất thuốc liên hợp với vi hạt liên kết với kháng thể. Kháng thể gắn với thuốc trong mẫu thử không còn khả năng thúc đẩy hình thành hạt ngưng kết, và sau đó ức chế sự hình thành lưới hạt. Sự có mặt của thuốc trong mẫu thử làm giảm sự gia tăng độ hấp thu tỷ lệ với nồng độ thuốc trong mẫu thử. Hàm lượng thuốc trong mẫu thử được xác định tương ứng với giá trị thu được cho ngưỡng nồng độ đã biết trước của thuốc.
II.CHUẨN BỊ
1.Người thực hiện:
Người thực hiện kỹ thuật cần có trình độ phù hợp
2.Phương tiện, hóa chất:
2.1.Phương tiện
- Máy có thể phân tích: COBAS C, AU…
- Máy ly tâm
- Tủ lạnh để bảo quản hóa chất, chất hiệu chuẩn, QC và mẫu bệnh phẩm
- Ống nghiệm, giá đựng ống nghiệm
- Pipet chuyển mẫu, nước cất hoặc nước khử ion
2.2. Hoá chất
Các hóa chất cần thiết gồm:
- Thuốc thử định lượng Amphetamin: Khi chưa mở nắp. thuôc thử ổn định ở 2- 8°C cho đến hết hạn sử dụng ghi trên hộp. Thuốc thử đã mở nắp và để lạnh trên máy ổn định trong 8 tuần.
- Chất chuẩn
- Chất kiểm tra chất lượng.
3.Người bệnh:
Người bệnh và người nhà người bệnh cần được chuẩn bị và giải thích về mục đích của việc lấy nước tiểu để làm xét nghiệm.
4.Phiếu xét nghiệm:
- Phiếu xét nghiệm theo đúng quy định của Bộ Y tế và bệnh viện
- Trên phiếu xét nghiệm cần ghi đầy đủ thông tin của người bệnh: họ và tên, tuổi, giới tính, số giường, khoa phòng, chẩn đoán, xét nghiệm cần làm.
- Trên phiếu xét nghiệm cần có: chữ ký và họ tên bác sĩ chỉ định xét nghiệm, họ tên người lấy mẫu, thời gian chỉ định xét nghiệm và thời gian lấy mẫu bệnh phẩm.
III.CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH
1.Lấy bệnh phẩm:
Nước tiểu: Lấy mẫu nước tiểu trong dụng cụ chứa bằng thủy tinh hoặc plastic. Mẫu nước tiểu mới không yêu cầu bất kỳ xử lý hay tiền xử lý đặc biệt nào, nhưng phải hút mẫu cẩn thận để tránh cặn. pH mẫu phải nằm trong khoảng từ 5-8. Không cần sử dụng chất bảo quản. Có thể bảo quản mẫu nước tiểu ở 2-8 °C trong vòng 5 ngày sau khi lấy mẫu. Ly tâm mẫu có độ đục cao trước khi xét nghiệm.
2.Tiến hành kỹ thuật:
- Máy phân tích cần chuẩn bị sẵn sàng để thực hiện phân tích mẫu: Máy đã được cài đặt chương trình xét nghiệm Amphetamin. Máy đã được chuẩn với xét nghiệm Amphetamin. Kết quả kiểm tra chất lượng với xét nghiệm Amphetamin đạt yêu cầu: không nằm ngoài dải cho phép và không vi phạm luật kiểm tra chất lượng.
- Người thực hiện phân tích mẫu nhập dữ liệu về thông tin người bệnh và chỉ định xét nghiệm vào máy phân tích hoặc hệ thống mạng (nếu có).
- Thực hiện phân tích mẫu bệnh phẩm theo protocol của máy.
- Khi có kết quả cần xem xét đánh giá kết quả sau đó in báo cáo hoặc ghi kết quả vào phiếu xét nghiệm để trả cho người bệnh.
IV.NHẬN ĐỊNH KẾT QUẢ
Với xét nghiệm định tính, ngưỡng mẫu chuẩn được sử dụng để tham chiếu trong phân biệt giữa mẫu dương tính sơ bộ và mẫu âm tính. Mẫu cho giá trị độ hấp thu dương hay bằng “0” được xem là dương tính sơ bộ. Mẫu dương tính sơ bộ được báo cờ hiệu là >Test. Mẫu cho giá trị độ hấp thu âm được xem là âm tính. Mẫu âm tính được ghi dấu trừ ở phía trước. Kết quả của xét nghiệm này chỉ phân biệt các mẫu dương tính sơ bộ (≥ 300 ng/mL, ≥ 500 ng/mL hoặc ≥ 1000 ng/mL phụ thuộc vào ngưỡng mẫu chuẩn) so với mẫu âm tính. Không thể ước lượng lượng thuốc được phát hiện trong một mẫu dương tính sơ bộ. Xét nghiệm bán định lượng của các kết quả dương tính sơ bộ chỉ nên được sử dụng bởi phòng xét nghiệm nhằm xác định độ pha loãng thích hợp của mẫu để khẳng định bằng một phương pháp khẳng định như sắc ký khí/khối phổ (GC/MS).
Nó cũng cho phép phòng xét nghiệm thiết lập quy trình kiểm tra chất lượng và đánh giá hiệu năng kiểm chứng. Đối với xét nghiệm bán định lượng, máy phân tích sẽ vẽ một đường cong chuẩn từ các kết quả đo độ hấp thu của các mẫu chuẩn bằng hàm điều chỉnh 4 thông số logit-log (RCM). Hàm logit-log sẽ vẽ một đường thẳng qua các điểm dữ liệu. Máy phân tích sử dụng các giá trị độ hấp thu của mẫu thử để tính nồng độ thuốc hoặc chất chuyển hóa của thuốc bằng cách nội suy từ hàm điều chỉnh logit-log. Kết quả của xét nghiệm này chỉ cho nồng độ tích lũy gần đúng của thuốc và các chất chuyển hóa của nó.
V. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ XỬ TRÍ
Xem lại dữ liệu Reaction Monitor của mẫu thử và so sánh với dữ liệu Reaction Monitor của mẫu chuẩn cao nhất. Nguyên nhân thường gặp là do nồng độ chất phân tích trong mẫu thử cao, trong trường hợp này giá trị độ hấp thu của mẫu thử sẽ nhỏ hơn giá trị của mẫu chuẩn cao nhất. Pha loãng mẫu thích hợp sử dụng mẫu chuẩn 0 ng/mL và chạy mẫu lại. Có thể thay thế mẫu chuẩn 0 ng/mL bằng nước tiểu bình thường không chứa thuốc nếu nước tiểu và quy trình đã được thẩm định bởi phòng xét nghiệm.
Để đảm bảo mẫu thử không bị pha loãng quá mức, kết quả pha loãng, trước khi nhân với hệ số pha loãng, ít nhất phải bằng 1/2 giá trị ngưỡng của chất phân tích. Nếu kết quả nằm dưới 1/2 giá trị ngưỡng của chất phân tích, xét nghiệm lại mẫu thử với độ pha loãng nhỏ hơn. Độ pha loãng cho kết quả gần nhất với ngưỡng chất phân tích là giá trị ước lượng chính xác nhất. Để ước lượng nồng độ của các mẫu dương tính sơ bộ, nhân kết quả với hệ số pha loãng thích hợp. Chỉ nên pha loãng để biện luận kết quả báo hiệu Calc.? hoặc Samp.?, hoặc khi cần ước lượng nồng độ các mẫu đo bằng phương pháp GC/MS.
Hãy thận trọng khi báo cáo kết quả vì có những yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm nước tiểu. Như với bất kỳ xét nghiệm nhạy đối với lạm dụng thuốc trên các máy phân tích hóa sinh lâm sàng tự động, có khả năng chất phân tích từ mẫu thử có nồng độ rất cao nhiễm vào mẫu bình thường (âm tính) và được xét nghiệm ngay sau đó. Khẳng định tất cả kết quả dương tính sơ bộ bằng một phương pháp khác.
Khi chạy xét nghiệm Amphetamines và HbA1c II, trên cùng máy phân tích, tránh tiến hành xét nghiệm đầu tiên là Amphetamines sau chế độ chờ. Nếu không có xét nghiệm nào khác đang chờ, nên tiến hành một xét nghiệm mẫu giả để tránh Amphetamines trở thành xét nghiệm đầu tiên sau chế độ chờ. Ra lệnh xét nghiệm giả cho bất kỳ xét nghiệm nào có R1 ngoài HbA1c II.
Nguồn: Quyết định số 7034/QĐ-BYT ngày 22/11/2018
Các amphetamine được gọi là các amin cường giao cảm vì chúng bắt chước tác động kích thích hệ thần kinh giao cảm. Những phân tử nhỏ này, dựa trên ß- phenylethylamine, có cấu trúc tương tự như catecholamine của cơ thể. Nhiều loại đã được tạo ra bằng cách thay thế bất cứ vị trí nào trên cấu trúc. Các amphetamine là chất kích thích thần kinh trung ương mạnh. Như vậy chúng có thể làm tăng sự tỉnh táo, hoạt động thể chất, và giảm sự thèm ăn. Các amphetamine có một số chỉ định giới hạn và được phê duyệt để sử dụng trong chứng ngủ rũ, và béo phì… Tuy nhiên, vì các chất kích thích thần kinh trung ương này mang lại cảm giác tự tin, hạnh phúc, và sảng khoái, nên chúng rất gây nghiện, bị lạm dụng rộng rãi, và do đó là các chất bị kiểm soát. Lạm dụng có thể dẫn đến các hậu quả về y tế, tâm lý và xã hội. Tác hại cho sức khỏe bao gồm mất trí nhớ, hung hăng, hành vi loạn thần kinh, tổn thương tim, suy dinh dưỡng, và các vấn đề răng miệng nghiêm trọng. Amphetamin có thể là một chất chuyển hóa của một số loại thuốc khác bao gồm methamphetamine. Thông thường khoảng 30 % được bài tiết dạng không đổi trong nước tiểu 24 giờ, nhưng có thể thay đổi tới con số 74 % trong nước tiểu acid và có thể giảm đến 1 % trong nước tiểu kiềm.
Xét nghiệm dựa trên sự tương tác động học các vi hạt trong dung dịch được đo bởi những thay đổi trong dẫn truyền ánh sáng. Trong trường hợp không có thuốc mẫu, thuốc liên hợp hòa tan gắn với vi hạt liên kết với kháng thể, tạo thành các vi hạt kết tập. Khi phản ứng kết tập thực hiện trong trường hợp không có thuốc mẫu, độ hấp thu tăng lên.
Khi mẫu nước tiểu chứa thuốc đang nghi ngờ, thuốc này cạnh tranh với dẫn xuất thuốc liên hợp với vi hạt liên kết với kháng thể. Kháng thể gắn với thuốc trong mẫu thử không còn khả năng thúc đẩy hình thành hạt ngưng kết, và sau đó ức chế sự hình thành lưới hạt. Sự có mặt của thuốc trong mẫu thử làm giảm sự gia tăng độ hấp thu tỷ lệ với nồng độ thuốc trong mẫu thử. Hàm lượng thuốc trong mẫu thử được xác định tương ứng với giá trị thu được cho ngưỡng nồng độ đã biết trước của thuốc.
II.CHUẨN BỊ
1.Người thực hiện:
Người thực hiện kỹ thuật cần có trình độ phù hợp
2.Phương tiện, hóa chất:
2.1.Phương tiện
- Máy có thể phân tích: COBAS C, AU…
- Máy ly tâm
- Tủ lạnh để bảo quản hóa chất, chất hiệu chuẩn, QC và mẫu bệnh phẩm
- Ống nghiệm, giá đựng ống nghiệm
- Pipet chuyển mẫu, nước cất hoặc nước khử ion
2.2. Hoá chất
Các hóa chất cần thiết gồm:
- Thuốc thử định lượng Amphetamin: Khi chưa mở nắp. thuôc thử ổn định ở 2- 8°C cho đến hết hạn sử dụng ghi trên hộp. Thuốc thử đã mở nắp và để lạnh trên máy ổn định trong 8 tuần.
- Chất chuẩn
- Chất kiểm tra chất lượng.
3.Người bệnh:
Người bệnh và người nhà người bệnh cần được chuẩn bị và giải thích về mục đích của việc lấy nước tiểu để làm xét nghiệm.
4.Phiếu xét nghiệm:
- Phiếu xét nghiệm theo đúng quy định của Bộ Y tế và bệnh viện
- Trên phiếu xét nghiệm cần ghi đầy đủ thông tin của người bệnh: họ và tên, tuổi, giới tính, số giường, khoa phòng, chẩn đoán, xét nghiệm cần làm.
- Trên phiếu xét nghiệm cần có: chữ ký và họ tên bác sĩ chỉ định xét nghiệm, họ tên người lấy mẫu, thời gian chỉ định xét nghiệm và thời gian lấy mẫu bệnh phẩm.
III.CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH
1.Lấy bệnh phẩm:
Nước tiểu: Lấy mẫu nước tiểu trong dụng cụ chứa bằng thủy tinh hoặc plastic. Mẫu nước tiểu mới không yêu cầu bất kỳ xử lý hay tiền xử lý đặc biệt nào, nhưng phải hút mẫu cẩn thận để tránh cặn. pH mẫu phải nằm trong khoảng từ 5-8. Không cần sử dụng chất bảo quản. Có thể bảo quản mẫu nước tiểu ở 2-8 °C trong vòng 5 ngày sau khi lấy mẫu. Ly tâm mẫu có độ đục cao trước khi xét nghiệm.
2.Tiến hành kỹ thuật:
- Máy phân tích cần chuẩn bị sẵn sàng để thực hiện phân tích mẫu: Máy đã được cài đặt chương trình xét nghiệm Amphetamin. Máy đã được chuẩn với xét nghiệm Amphetamin. Kết quả kiểm tra chất lượng với xét nghiệm Amphetamin đạt yêu cầu: không nằm ngoài dải cho phép và không vi phạm luật kiểm tra chất lượng.
- Người thực hiện phân tích mẫu nhập dữ liệu về thông tin người bệnh và chỉ định xét nghiệm vào máy phân tích hoặc hệ thống mạng (nếu có).
- Thực hiện phân tích mẫu bệnh phẩm theo protocol của máy.
- Khi có kết quả cần xem xét đánh giá kết quả sau đó in báo cáo hoặc ghi kết quả vào phiếu xét nghiệm để trả cho người bệnh.
IV.NHẬN ĐỊNH KẾT QUẢ
Với xét nghiệm định tính, ngưỡng mẫu chuẩn được sử dụng để tham chiếu trong phân biệt giữa mẫu dương tính sơ bộ và mẫu âm tính. Mẫu cho giá trị độ hấp thu dương hay bằng “0” được xem là dương tính sơ bộ. Mẫu dương tính sơ bộ được báo cờ hiệu là >Test. Mẫu cho giá trị độ hấp thu âm được xem là âm tính. Mẫu âm tính được ghi dấu trừ ở phía trước. Kết quả của xét nghiệm này chỉ phân biệt các mẫu dương tính sơ bộ (≥ 300 ng/mL, ≥ 500 ng/mL hoặc ≥ 1000 ng/mL phụ thuộc vào ngưỡng mẫu chuẩn) so với mẫu âm tính. Không thể ước lượng lượng thuốc được phát hiện trong một mẫu dương tính sơ bộ. Xét nghiệm bán định lượng của các kết quả dương tính sơ bộ chỉ nên được sử dụng bởi phòng xét nghiệm nhằm xác định độ pha loãng thích hợp của mẫu để khẳng định bằng một phương pháp khẳng định như sắc ký khí/khối phổ (GC/MS).
Nó cũng cho phép phòng xét nghiệm thiết lập quy trình kiểm tra chất lượng và đánh giá hiệu năng kiểm chứng. Đối với xét nghiệm bán định lượng, máy phân tích sẽ vẽ một đường cong chuẩn từ các kết quả đo độ hấp thu của các mẫu chuẩn bằng hàm điều chỉnh 4 thông số logit-log (RCM). Hàm logit-log sẽ vẽ một đường thẳng qua các điểm dữ liệu. Máy phân tích sử dụng các giá trị độ hấp thu của mẫu thử để tính nồng độ thuốc hoặc chất chuyển hóa của thuốc bằng cách nội suy từ hàm điều chỉnh logit-log. Kết quả của xét nghiệm này chỉ cho nồng độ tích lũy gần đúng của thuốc và các chất chuyển hóa của nó.
V. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ XỬ TRÍ
Xem lại dữ liệu Reaction Monitor của mẫu thử và so sánh với dữ liệu Reaction Monitor của mẫu chuẩn cao nhất. Nguyên nhân thường gặp là do nồng độ chất phân tích trong mẫu thử cao, trong trường hợp này giá trị độ hấp thu của mẫu thử sẽ nhỏ hơn giá trị của mẫu chuẩn cao nhất. Pha loãng mẫu thích hợp sử dụng mẫu chuẩn 0 ng/mL và chạy mẫu lại. Có thể thay thế mẫu chuẩn 0 ng/mL bằng nước tiểu bình thường không chứa thuốc nếu nước tiểu và quy trình đã được thẩm định bởi phòng xét nghiệm.
Để đảm bảo mẫu thử không bị pha loãng quá mức, kết quả pha loãng, trước khi nhân với hệ số pha loãng, ít nhất phải bằng 1/2 giá trị ngưỡng của chất phân tích. Nếu kết quả nằm dưới 1/2 giá trị ngưỡng của chất phân tích, xét nghiệm lại mẫu thử với độ pha loãng nhỏ hơn. Độ pha loãng cho kết quả gần nhất với ngưỡng chất phân tích là giá trị ước lượng chính xác nhất. Để ước lượng nồng độ của các mẫu dương tính sơ bộ, nhân kết quả với hệ số pha loãng thích hợp. Chỉ nên pha loãng để biện luận kết quả báo hiệu Calc.? hoặc Samp.?, hoặc khi cần ước lượng nồng độ các mẫu đo bằng phương pháp GC/MS.
Hãy thận trọng khi báo cáo kết quả vì có những yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm nước tiểu. Như với bất kỳ xét nghiệm nhạy đối với lạm dụng thuốc trên các máy phân tích hóa sinh lâm sàng tự động, có khả năng chất phân tích từ mẫu thử có nồng độ rất cao nhiễm vào mẫu bình thường (âm tính) và được xét nghiệm ngay sau đó. Khẳng định tất cả kết quả dương tính sơ bộ bằng một phương pháp khác.
Khi chạy xét nghiệm Amphetamines và HbA1c II, trên cùng máy phân tích, tránh tiến hành xét nghiệm đầu tiên là Amphetamines sau chế độ chờ. Nếu không có xét nghiệm nào khác đang chờ, nên tiến hành một xét nghiệm mẫu giả để tránh Amphetamines trở thành xét nghiệm đầu tiên sau chế độ chờ. Ra lệnh xét nghiệm giả cho bất kỳ xét nghiệm nào có R1 ngoài HbA1c II.
Nguồn: Quyết định số 7034/QĐ-BYT ngày 22/11/2018