03-09-2015, 05:17 PM
Xét nghiệm cơ bản trong chẩn đoán lao phổi
Lao hoạt động phần lớn các trường hợp có nguyên nhân do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis, là thể lao có khả năng lây lan tới mọi người. Lao phổi, đặc biệt là lao phổi tìm thấy vi khuẩn lao trong đờm bằng phương pháp soi trực tiếp ( lao phổi AFB (+) ) là thể bệnh gây lây lan mạnh thông qua những hạt nhỏ chứa vi khuẩn hình thành khi ho hoặc hắt hơi.
Các xét nghiệm chẩn đoán lao cũng như các xét nghiệm chẩn đoán khác có hai tiêu chuẩn về chất lượng là độ nhậy và độ đặc hiệu.
Độ nhậy ý nghĩa là khả năng phát hiện tất cả những người có bệnh. Ví dụ, có 100 người làm xét nghiệm, 50 người trong số đó bị bệnh lao, một xét nghiệm tốt cần có khả năng phát hiện tất cả những người bị bệnh, khi đó xét nghiệm có được gọi là có độ nhậy cao.
Độ đặc hiệulà khả năng phát hiện người bị bệnh và không chẩn đoán sai những trường hợp không bệnh, không bị bệnh. Nếu có 100 người được làm xét nghiệm phát hiện bệnh lao, 50 người khỏe mạnh sẽ có xét nghiệm âm tính, 50 người có bệnh xét nghiệm dương tính.
Không có một xét nghiệm nào có thể vừa có độ nhậy cao và cùng lúc. Nếu 1 nghìn người được kiểm tra sẽ có sai trong một vài xét nghiệm, một xét nghiệm tốt khi cùng lúc có độ nhậy cao ( phát hiện người bệnh lao ) và độ đặc hiệu tốt ( khi xác định chính xác người không bị bệnh lao bằng xét nghiệm âm tính ). Độ nhậy và độ đặc hiệu được diễn giải bằng tỷ lệ phần trăm. Xét nghiệm tốt khi có độ nhậy, độ đặc hiệu trên 90%. Ví dụ như một test chẩn đoán lao có độ nhậy 95% và độ đặc hiệu 99% nghĩ là có khả năng xác định đúng 95 trường hợp bị bệnh ( xét nghiệm dương tính ) trong số 100 người bị bệnh, nhưng cũng có nghĩa là test xét nghiệm sai 1 người ( xét nghiệm dương tính ) trong số 100 người không bị bệnh lao.
Chụp phim Xquang
Chụp phim, Xquang là một xét nghiệm phổ biến sau khi đã hỏi bệnh và khám bệnh, XQ cho phép phát hiện những tổn thương nghi ngờ lao ở phổi. Ở phim x/q ( mũi tên phần trên bên phải của phổi ) minh họa một trường hợp bị bệnh lao, có thể nhìn thấy hình ảnh “hang” hình thành do vi khuẩn và tương tác với hệ miễn dịch của cơ thể. Hình ảnh hang trong bệnh lao thường ở thùy trên của phổi ( còn gọi là đỉnh phổi ), Chụp phim, x/q chẩn đoán bệnh lao có độ đặc hiệu thấp, một hình ảnh bất thường trên phổi có thể do rất nhiều nguyên nhân, và lao chỉ là một trong những nguyên nhân, vì vậy phim x.q không thể đủ để khẳng định một trường hợp bị bệnh lao, như vậy x/q thường sử dụng để khẳng định một trường hợp nghi ngờ lao, sau đó cần những xét nghiệm tiếp theo để khẳng định việc tìm thấy vi khuẩn lao. Chẩn đoán khẳng định lao không thể chỉ dựa vào xq đơn thuần, tương tư như vậy x/q không thể sử dụng để loại trừ một trường hơp lao phổi. Xét nghiệm trường hợp lao hoạt động dựa vào việc tìm thấy vi khuẩn ở bệnh phẩm từ người nghi nghờ bệnh, bệnh phẩm có vi khuẩn phụ thuộc vào cơ quan nghi bệnh. Phần lớn các trường hợp bệnh lao biểu hiện ở phổi, khi đó vi khuẩn sẽ tìm thấy ở đờm. Đờm là dịch đặc hơn so với nước bọt từ đường dẫn khí và thường được khạc ra cùng với khi bệnh nhân ho.
Mẫu bệnh phẩm đờm.
Nếu bệnh nhân khó ho khạc đờm, có thể tăng khả năng ho khạc đờm thành công bằng cách khí dung bằng dung dịch nước muối ưu trương qua mask, phương pháp này cũng có thể thực hiện ở trẻ em.
Có hai phương pháp để tìm vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis trong đờm thông qua xét nghiệm nhuộm hoặc nuôi cấy bệnh phẩm đờm, mục đích chung của cả hai xét nghiệm là có thể thấy vi khuẩn lao bị nhuộm mầu trong bệnh phẩm đờm.
Các vi khuẩn thông thường được xác định thông qua việc nhuộm mầu lên trên bề mặt vi khuẩn . Quá trình này được gọi là “ nhuộm soi”. Vi khuẩn khác nhau sẽ có bị nhuộm mầu khác nhau với những hóa chất nhuộm khác nhau, điều này giúp phân biệt các loại vi khuẩn. Vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis có lớp thành dầy và chứa acid có tên là mycoloic, do đó không bị nhuộm mầu rõ với hầu hết cá loại hóa chất, trên thực tế rất khó nhuộm mầu vi khuẩn nhóm mycobacterium bằng phương pháp nhuộm thông thường.
Soi đờm dưới kính hiển vi
Nhuộm soi đờm là phương pháp làm mầu nhuộm thấm vào các acid ở tế bào của vi khuẩn. Phương pháp nhuộm Ziehl-Neelson phổ biến nhất, đây là phương pháp được đặt tên theo tên của hai nhà khoa học mô tả phương pháp này vào những năm cuối của thập kỷ 18. Tuy nhiên phương pháp nhuộm soi đờm không cho phép phân biệt vi khuẩn lao với các vi khuẩn kháng cồn kháng toan khác, điều này làm khó khăn cho chẩn đoán những bệnh do vi khuẩn lao hoặc vi khuẩn lao không điển hình hay gặp ở người nhiễm HIV. Phương pháp này có độ nhậy thấp, do vậy mà vẫn có nhiều trường hợp người bệnh có tình trạng bệnh lao hoạt động không mà không được phát hiện.
Kết quả từ một nghiên cứu lớn cho thấy độ nhậy của soi đờm trực tiếp đạt 53%. Nói một cách khác, bệnh lao không được phát hiện ở một nửa số trường hợp bệnh nhân thực sự có bệnh lao. Ngoài ra phương pháp này đòi hỏi nhiều yêu cầu về mặt kỹ thuật. Tuy nhiên soi đờm trực tiếp vẫn được sự dụng rộng rãi vì giá thành của phương pháp này thấp, thời gian có kết quả nhanh, xác định trường hợp lao và xác định nguồn lây. Phương pháp soi huỳnh quang có thể làm tăng độ nhậy của soi đờm kính hiển vi tuy nhiên vẫn còn thấp.
Phương pháp nuôi cấy định danh vi khuẩn lao: thời gian lâu, kỹ thuật phức tạp, chi phí cao, được coi là tiêu chuẩn vàng xác định nguyên nhân do vi khuẩn Mycobacteria.tuberculosis
Nuôi cấy đờm, đờm được đưa vào một môi trường nuôi cấy với những điệu kiện nhiệt độ, thành phần không khí phù hợp nhất cho sự phát triển của vi khuẩn lao. Kỹ thuật viên phòng xét nghiệm sẽ kiếm tra xem vi khuẩn có phát triển hay không. Vì vi khuẩn lao phát triển rất chậm, thời gian cần thiết từ 3 tới 4 tuần hoặc nhiều hơn. Nếu có vi khuẩn lao trong đờm, vi khuẩn lao sẽ phát triển thành các khuẩn lạc có hình tròn, kết quả nuôi cấy được coi là dương tính.
So với soi đờm thì nuôi cấy có độ nhạy cao hơn, nhưng như vậy vẫn chưa đủ ( chỉ đạt khoảng 82% trong các nghiên cứu lớn). Tuy nhiên nuôi cấy đờm không luôn giúp xác định được bệnh lao, vẫn có nhiều trường hợp người bị lao mà kết quả nuôi cấy đờm là âm tính.
Nếu bệnh nhân nghi ngờ là lao phổi mà không lấy được đờm làm xét nghiệm, có thể lấy các dịch khác của cơ thể để tìm Mycobacterium tuberculosis như: dịch dạ dầy vào buối sáng, tăm bông ngoáy hầu họng, hay dịch phế quản khi soi phế quản.
Gần đây, một xét nghiệm mới được phát triển để chẩn đoán lao hoạt động. Kỹ thuật này có tên là GeneXpert MTB/RIF, bệnh phẩm được sử dụng là đờm. Nếu mẫu đờm có vi khuẩn lao nó sẽ phát hiện ra bằng việc tăng số phiên bản DNA của vi khuẩn ( genen của vi khuẩn lao, DNA là một đoạn ngắn chuỗi acid desoxyrubinuchleic) thông qua phương pháp gọi là PCR( polymerase chain reaction ), và sau đó phát hiện ra bằng các mẫu dò tương ứng đã biết. Kỹ thuật giúp trả lời có DNA vi khuẩn lao trong bệnh phẩm hay không, và DNA này có đột biến kháng thuốc hay không, hay nói cách khác là vi khuẩn lao có kháng vởi Rifampicin hay không . Tuy nhiên kỹ thuật này vẫn còn trong giai đoạn triển khai và đánh giá ở mức độ toàn cầu trước khi được sử dụng rộng rãi ở mức toàn cầu.
Lao hoạt động phần lớn các trường hợp có nguyên nhân do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis, là thể lao có khả năng lây lan tới mọi người. Lao phổi, đặc biệt là lao phổi tìm thấy vi khuẩn lao trong đờm bằng phương pháp soi trực tiếp ( lao phổi AFB (+) ) là thể bệnh gây lây lan mạnh thông qua những hạt nhỏ chứa vi khuẩn hình thành khi ho hoặc hắt hơi.
Các xét nghiệm chẩn đoán lao cũng như các xét nghiệm chẩn đoán khác có hai tiêu chuẩn về chất lượng là độ nhậy và độ đặc hiệu.
Độ nhậy ý nghĩa là khả năng phát hiện tất cả những người có bệnh. Ví dụ, có 100 người làm xét nghiệm, 50 người trong số đó bị bệnh lao, một xét nghiệm tốt cần có khả năng phát hiện tất cả những người bị bệnh, khi đó xét nghiệm có được gọi là có độ nhậy cao.
Độ đặc hiệulà khả năng phát hiện người bị bệnh và không chẩn đoán sai những trường hợp không bệnh, không bị bệnh. Nếu có 100 người được làm xét nghiệm phát hiện bệnh lao, 50 người khỏe mạnh sẽ có xét nghiệm âm tính, 50 người có bệnh xét nghiệm dương tính.
Không có một xét nghiệm nào có thể vừa có độ nhậy cao và cùng lúc. Nếu 1 nghìn người được kiểm tra sẽ có sai trong một vài xét nghiệm, một xét nghiệm tốt khi cùng lúc có độ nhậy cao ( phát hiện người bệnh lao ) và độ đặc hiệu tốt ( khi xác định chính xác người không bị bệnh lao bằng xét nghiệm âm tính ). Độ nhậy và độ đặc hiệu được diễn giải bằng tỷ lệ phần trăm. Xét nghiệm tốt khi có độ nhậy, độ đặc hiệu trên 90%. Ví dụ như một test chẩn đoán lao có độ nhậy 95% và độ đặc hiệu 99% nghĩ là có khả năng xác định đúng 95 trường hợp bị bệnh ( xét nghiệm dương tính ) trong số 100 người bị bệnh, nhưng cũng có nghĩa là test xét nghiệm sai 1 người ( xét nghiệm dương tính ) trong số 100 người không bị bệnh lao.
Chụp phim Xquang
Chụp phim, Xquang là một xét nghiệm phổ biến sau khi đã hỏi bệnh và khám bệnh, XQ cho phép phát hiện những tổn thương nghi ngờ lao ở phổi. Ở phim x/q ( mũi tên phần trên bên phải của phổi ) minh họa một trường hợp bị bệnh lao, có thể nhìn thấy hình ảnh “hang” hình thành do vi khuẩn và tương tác với hệ miễn dịch của cơ thể. Hình ảnh hang trong bệnh lao thường ở thùy trên của phổi ( còn gọi là đỉnh phổi ), Chụp phim, x/q chẩn đoán bệnh lao có độ đặc hiệu thấp, một hình ảnh bất thường trên phổi có thể do rất nhiều nguyên nhân, và lao chỉ là một trong những nguyên nhân, vì vậy phim x.q không thể đủ để khẳng định một trường hợp bị bệnh lao, như vậy x/q thường sử dụng để khẳng định một trường hợp nghi ngờ lao, sau đó cần những xét nghiệm tiếp theo để khẳng định việc tìm thấy vi khuẩn lao. Chẩn đoán khẳng định lao không thể chỉ dựa vào xq đơn thuần, tương tư như vậy x/q không thể sử dụng để loại trừ một trường hơp lao phổi. Xét nghiệm trường hợp lao hoạt động dựa vào việc tìm thấy vi khuẩn ở bệnh phẩm từ người nghi nghờ bệnh, bệnh phẩm có vi khuẩn phụ thuộc vào cơ quan nghi bệnh. Phần lớn các trường hợp bệnh lao biểu hiện ở phổi, khi đó vi khuẩn sẽ tìm thấy ở đờm. Đờm là dịch đặc hơn so với nước bọt từ đường dẫn khí và thường được khạc ra cùng với khi bệnh nhân ho.
Mẫu bệnh phẩm đờm.
Nếu bệnh nhân khó ho khạc đờm, có thể tăng khả năng ho khạc đờm thành công bằng cách khí dung bằng dung dịch nước muối ưu trương qua mask, phương pháp này cũng có thể thực hiện ở trẻ em.
Có hai phương pháp để tìm vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis trong đờm thông qua xét nghiệm nhuộm hoặc nuôi cấy bệnh phẩm đờm, mục đích chung của cả hai xét nghiệm là có thể thấy vi khuẩn lao bị nhuộm mầu trong bệnh phẩm đờm.
Các vi khuẩn thông thường được xác định thông qua việc nhuộm mầu lên trên bề mặt vi khuẩn . Quá trình này được gọi là “ nhuộm soi”. Vi khuẩn khác nhau sẽ có bị nhuộm mầu khác nhau với những hóa chất nhuộm khác nhau, điều này giúp phân biệt các loại vi khuẩn. Vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis có lớp thành dầy và chứa acid có tên là mycoloic, do đó không bị nhuộm mầu rõ với hầu hết cá loại hóa chất, trên thực tế rất khó nhuộm mầu vi khuẩn nhóm mycobacterium bằng phương pháp nhuộm thông thường.
Soi đờm dưới kính hiển vi
Nhuộm soi đờm là phương pháp làm mầu nhuộm thấm vào các acid ở tế bào của vi khuẩn. Phương pháp nhuộm Ziehl-Neelson phổ biến nhất, đây là phương pháp được đặt tên theo tên của hai nhà khoa học mô tả phương pháp này vào những năm cuối của thập kỷ 18. Tuy nhiên phương pháp nhuộm soi đờm không cho phép phân biệt vi khuẩn lao với các vi khuẩn kháng cồn kháng toan khác, điều này làm khó khăn cho chẩn đoán những bệnh do vi khuẩn lao hoặc vi khuẩn lao không điển hình hay gặp ở người nhiễm HIV. Phương pháp này có độ nhậy thấp, do vậy mà vẫn có nhiều trường hợp người bệnh có tình trạng bệnh lao hoạt động không mà không được phát hiện.
Kết quả từ một nghiên cứu lớn cho thấy độ nhậy của soi đờm trực tiếp đạt 53%. Nói một cách khác, bệnh lao không được phát hiện ở một nửa số trường hợp bệnh nhân thực sự có bệnh lao. Ngoài ra phương pháp này đòi hỏi nhiều yêu cầu về mặt kỹ thuật. Tuy nhiên soi đờm trực tiếp vẫn được sự dụng rộng rãi vì giá thành của phương pháp này thấp, thời gian có kết quả nhanh, xác định trường hợp lao và xác định nguồn lây. Phương pháp soi huỳnh quang có thể làm tăng độ nhậy của soi đờm kính hiển vi tuy nhiên vẫn còn thấp.
Phương pháp nuôi cấy định danh vi khuẩn lao: thời gian lâu, kỹ thuật phức tạp, chi phí cao, được coi là tiêu chuẩn vàng xác định nguyên nhân do vi khuẩn Mycobacteria.tuberculosis
Nuôi cấy đờm, đờm được đưa vào một môi trường nuôi cấy với những điệu kiện nhiệt độ, thành phần không khí phù hợp nhất cho sự phát triển của vi khuẩn lao. Kỹ thuật viên phòng xét nghiệm sẽ kiếm tra xem vi khuẩn có phát triển hay không. Vì vi khuẩn lao phát triển rất chậm, thời gian cần thiết từ 3 tới 4 tuần hoặc nhiều hơn. Nếu có vi khuẩn lao trong đờm, vi khuẩn lao sẽ phát triển thành các khuẩn lạc có hình tròn, kết quả nuôi cấy được coi là dương tính.
So với soi đờm thì nuôi cấy có độ nhạy cao hơn, nhưng như vậy vẫn chưa đủ ( chỉ đạt khoảng 82% trong các nghiên cứu lớn). Tuy nhiên nuôi cấy đờm không luôn giúp xác định được bệnh lao, vẫn có nhiều trường hợp người bị lao mà kết quả nuôi cấy đờm là âm tính.
Nếu bệnh nhân nghi ngờ là lao phổi mà không lấy được đờm làm xét nghiệm, có thể lấy các dịch khác của cơ thể để tìm Mycobacterium tuberculosis như: dịch dạ dầy vào buối sáng, tăm bông ngoáy hầu họng, hay dịch phế quản khi soi phế quản.
Gần đây, một xét nghiệm mới được phát triển để chẩn đoán lao hoạt động. Kỹ thuật này có tên là GeneXpert MTB/RIF, bệnh phẩm được sử dụng là đờm. Nếu mẫu đờm có vi khuẩn lao nó sẽ phát hiện ra bằng việc tăng số phiên bản DNA của vi khuẩn ( genen của vi khuẩn lao, DNA là một đoạn ngắn chuỗi acid desoxyrubinuchleic) thông qua phương pháp gọi là PCR( polymerase chain reaction ), và sau đó phát hiện ra bằng các mẫu dò tương ứng đã biết. Kỹ thuật giúp trả lời có DNA vi khuẩn lao trong bệnh phẩm hay không, và DNA này có đột biến kháng thuốc hay không, hay nói cách khác là vi khuẩn lao có kháng vởi Rifampicin hay không . Tuy nhiên kỹ thuật này vẫn còn trong giai đoạn triển khai và đánh giá ở mức độ toàn cầu trước khi được sử dụng rộng rãi ở mức toàn cầu.
Theo benhlaophoi.vn