06-16-2014, 09:23 PM
“Urine NGAL” cung cấp những manh mối về tổn thương ở thận của những bệnh nhân ICU và bệnh thận liên quan đến HIV. Tổn thương thận cấp tính (AKI) là một tình trạng phổ biến ở những bệnh nhân phải nhận sự chăm sóc đặc biệt.
Một nghiên cứu khác, cũng trên JASN, chỉ ra rằng NGAL niệu cũng có thể giúp chẩn đoán bệnh thận liên quan đến HIV xuất hiện ở những người Mỹ gốc Phi và người châu Phi da đen. “NGAL biểu hiện rất chuyên biệt trong những bao nang thận – tạo ra ý tưởng rằng NGAL có thể kiểm soát sự phát triển của những túi nang trong bệnh thận liên quan đến HIV”, theo lời của tiến sĩ y khoa Jonathan Barasch (Đại học Columbia, New York).
Ông bổ sung thêm, “Chúng tôi và tiến sĩ Prasad Devarajan, đã xác định sự hiện diện của NGAL trong thận cách đây 10 năm và sự chuyển dịch của nó vào thực tế lâm sàng trong một thời gian ngắn như vậy là đáng ngạc nhiên. Hầu như mọi bài báo đều có khả năng liên quan với NGAL và những căn bệnh hoặc tình trạng suy giảm chức năng thận”.
Trong nghiên cứu ICU, những bệnh nhân với nồng độ NGAL niệu cao hơn sẽ có khuynh hướng phát triển tình trạng tổn thương thận cấp tính nhiều hơn, thậm chí là sau khi điều chỉnh những yếu tố liên quan khác. Sự gia tăng của NGAL đã hiện diện trước khi có bất kỳ thay đổi nào xuất hiện trong xét nghiệm tiêu chuẩn cho tình trạng AKI (nồng độ creatinin huyết thanh). Tuy nhiên, nếu không có thông tin nào khác, NGAL niệu không hiệu quả hơn trong việc dự đoán AKI so với những yếu tố nguy cơ lâm sàng. Ikizler lưu ý rằng nghiên cứu bị giới hạn bởi việc thiếu thông tin về tình trạng tử vong bất thường hoặc nhu cầu cần thẩm phân, và do thiếu thông tin về chức năng thận ban đầu của bệnh nhân.
Trong nghiên cứu HIV, nồng độ NGAL niệu cao hơn nhiều ở những bệnh nhân mắc bệnh thận liên quan tới HIV (HIVAN) hơn là những bệnh nhân có những dạng bệnh thận khác, nhiễm hoặc không nhiễm HIV. HIVAN là một biến chứng quan trọng của HIV, xảy ra phần lớn ở những bệnh nhân có gốc Phi.
Những nghiên cứu trên chuột đề nghị rằng NGAL có thể đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của bệnh liên quan đến tế bào ống và vi nang, vốn là những đặc trưng của HIVAN. Barasch lưu ý rằng nghiên cứu trên người bị giới hạn ở số lượng nhỏ nhưng nêu bật sự cần thiết của những nghiên cứu lớn hơn nhằm đo lường chính xác monomer của NGAL. Ông bổ sung: “Nếu những kết quả của chúng tôi được xác nhận, việc đo nồng độ NGAL niệu có thể giúp phân loại bệnh nhân vào những nhóm có nguy cơ khác nhau”.
Một nghiên cứu khác, cũng trên JASN, chỉ ra rằng NGAL niệu cũng có thể giúp chẩn đoán bệnh thận liên quan đến HIV xuất hiện ở những người Mỹ gốc Phi và người châu Phi da đen. “NGAL biểu hiện rất chuyên biệt trong những bao nang thận – tạo ra ý tưởng rằng NGAL có thể kiểm soát sự phát triển của những túi nang trong bệnh thận liên quan đến HIV”, theo lời của tiến sĩ y khoa Jonathan Barasch (Đại học Columbia, New York).
Ông bổ sung thêm, “Chúng tôi và tiến sĩ Prasad Devarajan, đã xác định sự hiện diện của NGAL trong thận cách đây 10 năm và sự chuyển dịch của nó vào thực tế lâm sàng trong một thời gian ngắn như vậy là đáng ngạc nhiên. Hầu như mọi bài báo đều có khả năng liên quan với NGAL và những căn bệnh hoặc tình trạng suy giảm chức năng thận”.
Trong nghiên cứu ICU, những bệnh nhân với nồng độ NGAL niệu cao hơn sẽ có khuynh hướng phát triển tình trạng tổn thương thận cấp tính nhiều hơn, thậm chí là sau khi điều chỉnh những yếu tố liên quan khác. Sự gia tăng của NGAL đã hiện diện trước khi có bất kỳ thay đổi nào xuất hiện trong xét nghiệm tiêu chuẩn cho tình trạng AKI (nồng độ creatinin huyết thanh). Tuy nhiên, nếu không có thông tin nào khác, NGAL niệu không hiệu quả hơn trong việc dự đoán AKI so với những yếu tố nguy cơ lâm sàng. Ikizler lưu ý rằng nghiên cứu bị giới hạn bởi việc thiếu thông tin về tình trạng tử vong bất thường hoặc nhu cầu cần thẩm phân, và do thiếu thông tin về chức năng thận ban đầu của bệnh nhân.
Trong nghiên cứu HIV, nồng độ NGAL niệu cao hơn nhiều ở những bệnh nhân mắc bệnh thận liên quan tới HIV (HIVAN) hơn là những bệnh nhân có những dạng bệnh thận khác, nhiễm hoặc không nhiễm HIV. HIVAN là một biến chứng quan trọng của HIV, xảy ra phần lớn ở những bệnh nhân có gốc Phi.
Những nghiên cứu trên chuột đề nghị rằng NGAL có thể đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của bệnh liên quan đến tế bào ống và vi nang, vốn là những đặc trưng của HIVAN. Barasch lưu ý rằng nghiên cứu trên người bị giới hạn ở số lượng nhỏ nhưng nêu bật sự cần thiết của những nghiên cứu lớn hơn nhằm đo lường chính xác monomer của NGAL. Ông bổ sung: “Nếu những kết quả của chúng tôi được xác nhận, việc đo nồng độ NGAL niệu có thể giúp phân loại bệnh nhân vào những nhóm có nguy cơ khác nhau”.