04-05-2012, 11:32 AM
MẪU QUỆT HẦU, HỌNG VÀ CẤY MẪU QUỆT HẦU HỌNG
1.CHỈ ĐỊNH
- Quệt hầu hay quệt họng được chỉ định trước các bệnh nhân cần xác định có phải bị nhiễm trùng vùng hầu, họng do vi khuẩn hay không. Nghĩa là nên có chỉ định quệt hầu, họng trước các bệnh nhân có các triệu chứng : đau, rát, vùng hầu họng. Khám thấy niêm mạc hầu họng sưng đỏ, phù nề, viêm amidan, có màng mủ hay màng giả, phù nề lưỡi, lưỡi đỏ dâu tây và sưng hạch cổ.
- Ngoài ra quệt hầu, họng còn có khi được chỉ định để phát hiện người lành mang vi khuẩn như S. aureus, N. menigitidis, S. pyogenes (nhóm A), C. diphtheria.
2. THỜI ĐIỂM QUỆT HẦU HỌNG
Phải lấy mẫu trước khi bệnh nhân dùng kháng sinh hệ thống.
3. CÁCH LẤY MẪU
- Cho bệnh nhân ngồi, đầu hơi ngửa ra sau. Yêu cầu bệnh nhân há miệng ra, có thể vừa há miệng vừa phát âm A. A.. A...
- Dùng cây đè lưỡi, đè lưỡi của bệnh nhân để thấy rõ họng.
- Lấy tăm bông vô trùng (tăm bông vô trùng lấy mẫu) quệt vào vùng amidan, vùng thành sau họng hay vùng bị viêm nhiễm. Tránh quệt vào lưỡi hay vòm khẩu cái hay niêm mạc má, miệng.
- Cho tăm bông vào tube nắp chặt vô trùng rồi gửi ngay đến phòng thí nghiệm. Nếu chậm trễ hơn 4 giờ thì cho vào môi trường chuyên chở Stuart - Amies.
4. KHẢO SÁT TRỰC TIẾP
- Làm phết nhuộm gram (sau khi tiến hành nuôi cấy nếu bệnh phẩm chỉ là một que tăm bông) và tuỳ yêu cầu của bác sĩ lâm sàng, xét nghiệm viên có thể tìm:
+ Có vi khuẩn dạng bạch hầu không?
+ Có thoi xoắn khuẩn không?
+ Có nấm men không?
+ Sự hiện diện của các vi khuẩn khác như liên cầu, tụ cầu, là không có giá trị vì các dạng vi khuẩn này có thể thấy nhiều trong quệt hầu họng người bình thường.
- Nếu có yêu cầu của bác sĩ là tìm vi khuẩn bạch hầu thì làm phết nhuộm với xanh methylen kiềm.
5. NUÔI CẤY
5.1. Trường hợp tìm bạch hầu
- Cấy trên thạch Loeffer, ủ 35 -37[sup]0[/sup]C trong 6-8 giờ sau đó cấy lại trên thạch máu (BA) có thêm tellurit để chọn lọc.
- Cũng có thể cấy trên BA- tellurit ngay trong ngày đầu.
- Sau khi ủ trong 24 -48h, nếu có vi khuẩn mọc thì nhuộm gram, nếu phát hiện có vi khuẩn dạng bạch hầu thì tiếp tục định danh và làm thử nghiệm tìm độc tố để xác định vi khuẩn bạch hầu gây bệnh.
5.2. Trường hợp tìm liên cầu
- Cấy trên một hộp thạch máu có gentamicin (BA_- Ge) và có thể thêm một hộp thạch BA hay BA có nalidixic acid (BANg). Có thể đặt ở vùng có mầm cấy nhiều nhết một đĩa bacitracin và một đĩa co-trimoxazol. Ủ hộp thạch trong bình nến, trong tủ ủ 35 -37[sup]0[/sup]C, để qua đêm.
- Nếu có nhiều khóm liên cầu tan huyết β mọc trên hộp thạch, có thể đoán biết liên cầu thuộc nhóm nào.
+ Nhóm A: nếu nhạy bacitracin, kháng co – trimoxazol
+ Nhóm B, D: nếu kháng bacitracin, kháng co – trimoxazol
+ Nhóm C, G, F: nếu kháng bacitracin, nhạy co – trimoxazol
- Nếu ít khóm liên cầu mọc, tiến hành cấy thuần khiết rồi định danh sau.
- Trên hộp thạch máu có thể tìm được Staphylococci, S. pneumoniae. Nhưng các vi khuẩn này chỉ phân lập và phúc trình kết quả cho bác sĩ lâm sàng có yêu cầu rõ ràng, hay khi có yêu cầu tìm người lành mang trùng.
- Nếu là liên cầu tan huyết nhóm A, không cần thiết phải làm kháng sinh đồ vì vi khuẩn nhạy cảm 100% với penicillin, nếu là các liên cầu nhóm khác thì có thể làm kháng sinh đồ.
5.3. Trường hợp tìm H. influenzae
Cấy thêm hộp thạch CAHI (CA máu ngựa và có thêm bacitracin) như trong trường hợp mẫu đờm.
5.4. Nếu có yêu cầu tìm N. gonorrhoeae (viêm họng do lậu cầu), hay tìm N. menigitidis (phát hiện tình trạng mang trùng)
Cấy thêm hộp thạch CATM (thạc nâu Thayer Martin), ủ bình nến 35 -37[sup]0[/sup]C qua đêm hay 24- 48 giờ. Định danh khóm nghi ngờ.
5.5. Nếu không có một yêu cầu rõ ràng của bác sĩ lâm sàng
Chỉ thực hiện nuôi cấy tìm vi khuẩn đích là liên cầu tan huyết beta.
6. PHƯƠNG PHÁP MIỄN DỊCH HỌC
- Mục đích tìm kháng nguyên đặc hiệu liên cầu tan huyết beta thuộc nhóm A
- Có nhiều phương pháp như ELISA, sắc kí miễn dịch, tụ latex. Phương pháp tụ latex hay sắc kí miễn dịch là thích hợp để thực hiện ngay tại nơi khám bệnh nhất.
- Các phương pháp này có độ nhạy và đặc hiệu khá cao.
- Tất cả các phương pháp này đều dễ dàng thực hiện tại các phòng khám.
7. CẤY QUỆT HẦU HỌNG – CÁC CÂU HỎI THƯỜNG GẶP
7.1. Mẫu quệt hầu họng có cần phải cho vào môi trường chuyên chở Stuart – Amies không?
- Thông thường với vi khuẩn đích cần tìm là liên cầu tiêu huyết nhóm A hay tụ cầu thì không cần phải cho mẫu quệt hầu họng vào môi trường chuyên chở nếu mẫu được cấy trong vòng 4 giờ sau khi lấy.
- Tuy nhiên nếu vi khuẩn đích cần tìm là S. pneumoniae, N. menigitidis, N. gonorrhoeae thì nên cho vào môi trường chuyên chở vì các vi khuẩn này rất khó mọc và dễ bị chết trong môi trường ngoài cơ thể.
- Nếu vi khuẩn đích là bạch hầu thì cũng không cần dùng môi trường chuyên chở vì yêu cầu tìm bạch hầu là yêu cầu khẩn, phòng thí nghiệm phải làm ngay sau khi có mẫu mà không được chậm trễ.
7.2. Nếu kết quả cấy quệt hầu họng có H. influenzae, S. pneumoniae,S. aureus,hay N. menigitidis thì đây có phải là các vi khuẩn gây viêm họng không và cần trả lời cho lâm sàng không?
- Các vi khuẩn trên đều có thể là vi khuẩn thường trú ở hầu họng, không phải là tác nhân gây viêm họng. Riêng H. influenzae, nếu là type B thì có thể là tác nhân gây viêm họng.
- Khi kết quả cấy là một trong các vi khuẩn trên thì có thể trả lời cho lâm sàng nếu có yêu cầu rõ ràng tìm các vi khuẩn trên, nhưng phải ghi chú đây có thể là vi khuẩn thường trú không gây bệnh viêm hầu họng.
7.3. Xin cho biết giá trị của các thử nghiệm hóa miễn dịch (sắc ký miễn dịch hay tụ latex) phát hiện trực tiếp và nhanh liên cầu tiêu huyết nhóm A trong quệt họng?
- Đây là các thử nghiệm hóa miễn dịch phát hiện kháng nguyên carbohydrat C đặc trưng của liên cầu tan huyết nhóm A trong hầu họng.
- Các thử nghiệm này có độ nhạy và độ đặc hiệu rất cao, không thua gì nuôi cấy. Lại có thể thực hiện rất dễ dàng tại các phòng mạch hay phòng khám và kết quả cũng rất nhanh chỉ trong vòng không quá 10 phút sau khi lấy mẫu. Chính vì vậy đây là thử nghiệm nên có tại các phòng mạch hay phòng khám vì viêm họng là một bệnh cảnh rất thường gặp và yêu cầu tìm liên cầu tan huyết nhóm A cũng là một yêu cầu rất cần thiết để giúp chẩn đoán phân biệt với các tác nhân viêm họng khác cũng như giúp bác sĩ có ngay chỉ định điều trị chính xác ngay từ đầu.