Acinetobacter là các loài vi khuẩn gram âm hiếu khí phân bố rộng trong đất và nước, đôi khi phân lập được từ da, màng nhầy, chất bài tiết và cả môi trường bệnh viện.
Acinetobacter baumannii là loài phân lập được nhiều nhất, Acinetobacter lwoffii, Acinetobacter johnsonii, Acinetobacter haemolyticus và một số loài khác cũng thỉnh thoảng phân lập được. Một vài trường hợp phân lập không nhận biết được tên loài. Trước đây Acinetobacter được gọi bằng một số tên khác nhau, bao gồm Mima polymorpha và Herellea vaginicola, phản ánh tính chất đặc trưng của vi sinh vật.
Acinetobacter có dạng cầu khuẩn hoặc cầu trực khuẩn, trên lam nhuộm chúng rất giống với họ Nesseriae, vì vậy dạng song cầu chiếm ưu thế trong các dịch cơ thể và trong môi trường nuôi cấy lỏng. dạng trực khuẩn cũng xuất hiện, và thỉnh thoảng vi khuẩn bắt màu gram dương. Acinetobacter mọc tốt trên hầu hết các loại môi trường nuôi cấy bệnh phẩm từ người. Acinetobacter gây viêm màng não và nhiểm khuẩn huyết có thể nghĩ lầm đến N. meningitides, tương tự, Acinetobacter gây bệnh nhiễm trùng đường sinh dục của nữ giới có thể nghĩ lầm đến N. gonorrhoeae. Tuy nhiên họ Nesseriae sản xuất oxidase còn Acinetobacter thì không.
Acinetobacter thường là vi khuẩn hội sinh, không gây bệnh nhưng thỉnh thoảng gây nhiễm trùng bệnh viện. A. baumannii được phân lập từ máu, đờm, da, dịch màng phổi và nước tiểu, luôn được cho là có liên quan đến nhiễm trùng. A.johnsonii là một mầm bệnh trong bệnh viện có độc lực thấp và được tìm thấy trong bình cấy máu của bệnh nhân của bệnh nhân đặt catheters tĩnh mạch. Acinetobacter được tình cờ bắt gặp trong viêm phổi bệnh viện thường bắt nguồn từ nước trong dụng cụ làm ẩm phòng hoặc các bình phun. Ở những bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết do acinetobacters, đặt catheters tĩnh mạch là nguyên nhân gây nhiễm khuẩn. Ở những bệnh nhân bị bỏng hoặc bị suy giảm miễn dịch, acinetobacter gây nhiễm trùng cơ hội. Acinetobacter đang có chiều hướng kháng nhiều loại kháng sinh, và điều trị nhiễm khuẩn có thể gặp khó khăn. Kháng sinh đồ nên được thực hiện để lựa chọn được loại kháng sinh tốt nhất để điều trị. Acinetobacter kháng các loại kháng sinh thường sử dụng như gentamicin, amikacin, hoặc tobramycin và mới đây là penicillins hoặc cephalosporins
Nguồn Jawetz, Melnick, & Adelberg's Medical Microbiology 25th edition 2010
Acinetobacter baumannii là loài phân lập được nhiều nhất, Acinetobacter lwoffii, Acinetobacter johnsonii, Acinetobacter haemolyticus và một số loài khác cũng thỉnh thoảng phân lập được. Một vài trường hợp phân lập không nhận biết được tên loài. Trước đây Acinetobacter được gọi bằng một số tên khác nhau, bao gồm Mima polymorpha và Herellea vaginicola, phản ánh tính chất đặc trưng của vi sinh vật.
Acinetobacter có dạng cầu khuẩn hoặc cầu trực khuẩn, trên lam nhuộm chúng rất giống với họ Nesseriae, vì vậy dạng song cầu chiếm ưu thế trong các dịch cơ thể và trong môi trường nuôi cấy lỏng. dạng trực khuẩn cũng xuất hiện, và thỉnh thoảng vi khuẩn bắt màu gram dương. Acinetobacter mọc tốt trên hầu hết các loại môi trường nuôi cấy bệnh phẩm từ người. Acinetobacter gây viêm màng não và nhiểm khuẩn huyết có thể nghĩ lầm đến N. meningitides, tương tự, Acinetobacter gây bệnh nhiễm trùng đường sinh dục của nữ giới có thể nghĩ lầm đến N. gonorrhoeae. Tuy nhiên họ Nesseriae sản xuất oxidase còn Acinetobacter thì không.
Acinetobacter thường là vi khuẩn hội sinh, không gây bệnh nhưng thỉnh thoảng gây nhiễm trùng bệnh viện. A. baumannii được phân lập từ máu, đờm, da, dịch màng phổi và nước tiểu, luôn được cho là có liên quan đến nhiễm trùng. A.johnsonii là một mầm bệnh trong bệnh viện có độc lực thấp và được tìm thấy trong bình cấy máu của bệnh nhân của bệnh nhân đặt catheters tĩnh mạch. Acinetobacter được tình cờ bắt gặp trong viêm phổi bệnh viện thường bắt nguồn từ nước trong dụng cụ làm ẩm phòng hoặc các bình phun. Ở những bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết do acinetobacters, đặt catheters tĩnh mạch là nguyên nhân gây nhiễm khuẩn. Ở những bệnh nhân bị bỏng hoặc bị suy giảm miễn dịch, acinetobacter gây nhiễm trùng cơ hội. Acinetobacter đang có chiều hướng kháng nhiều loại kháng sinh, và điều trị nhiễm khuẩn có thể gặp khó khăn. Kháng sinh đồ nên được thực hiện để lựa chọn được loại kháng sinh tốt nhất để điều trị. Acinetobacter kháng các loại kháng sinh thường sử dụng như gentamicin, amikacin, hoặc tobramycin và mới đây là penicillins hoặc cephalosporins
Nguồn Jawetz, Melnick, & Adelberg's Medical Microbiology 25th edition 2010