05-16-2012, 11:44 PM
Giun chỉ có chu kỳ phát triển qua 2 vật chủ là người và tiết túc. Giun chỉ ở người có vật chủ phụ là muỗi, được chia làm 2 nhóm:
– Nhóm giun chỉ ký sinh dưới da và tổ chức – Nhóm giun chỉ ký sinh ở bạch huyết có các giống Wuchereria và Brugia
ở Việt Nam chỉ gặp giun chỉ bạch huyết và mới chỉ phát hiện được 2 loại là Wuchereria bancrofti và Brugia malayi.
1. Hình thể
1.1. Giun trưởng thành
Hình sợi, màu trắng hoặc trắng sữa. Con đực dài 4 cm, rộng 0,1 mm. Con cái dài 8-10cm, rộng 0,25 mm, sống cuộn với nhau trong hệ bạch huyết. Khó phân biệt giữa 2 loại ký sinh ở người.
– Cấu tạo: Bao bọc ngoài thân là lớp vỏ, tiếp đến là lớp hạ bì, lớp cơ. Trong có các bộ phận cấu tạo đơn giản, riêng tử cung chiếm phần lớn thân, trong chứa nhiều bọc có ấu trùng. Trứng nằm trong màng bọc rất mỏng trong có ấu trùng, ấu trùng chỉ cử động mạnh là ra khỏi trứng. 1.2. Ấu trùng
Ấu trùng được bao bọc bởi một lớp vỏ được gọi là áo. Trong cơ thể có phần đầu và đuôi. Trong thân có nhiều hạt sau khi nhuộm gọi là hạt nhiễm sắc. Đặc điểm quan trọng của hạt nhiễm sắc để phân biệt 2 loại giun chỉ ký sinh là hạt nhiễm sắc cuối đuôi.
Một số đặc điểm để phân biệt ấu trùng giai đoạn I của giun chỉ Wuchereria bancrofti và Brugia malayi như sau:
2. Chu kỳ
2.1. Vị trí ký sinh
Giun trưởng thành ký sinh ở hệ bạch huyết. ấu trùng sống ở hệ tuần hoàn máu.
2.2. Diễn biến chu kỳ
Giun chỉ sinh sản hữu tính. Giun cái đẻ ra ấu trùng, ấu trùng từ hệ tuần hoàn bạch huyết sang hệ tuần hoàn máu và thường xuất hiện ở máu ngoại vi về ban đêm (từ 21giờ đêm đến 2 giờ sáng) .Khi muỗi hút máu người, ấu trùng chủ động nhanh chóng xâm nhập vào vòi muỗi để vào dạ dày. ở dạ dầy muỗi, sau 2 - 6 giờ ấu trùng xuyên qua dạ dày và để lớp áo lại. Sau 15 giờ ấu trùng di chuyển tới vùng cơ ngực muỗi. Sau 14 ngày ấu trùng lại thay vỏ thành ấu trùng giai đoạn IV . Ký sinh ở vùng tuyến nước bọt chờ cơ hội xâm nhập vào người.
Sau khi muỗi hút máu người truyền ấu trùng giun chỉ vào máu ngoại vi, từ đó ấu trùng theo máu ký sinh ở hệ bạch huyết để phát triển thành giun trưởng thành. Thời gian từ khi nhiễm đến khi xuất hiện ấu trùng trong máu khoảng 3 - 7 tháng. Đối với Wuchereria bancrofti thường ký sinh ở hạch vùng sinh dục và hạch vùng thận. Còn Brugia malayi thường ký sinh ở hạch vùng bẹn hoặc nách.
Giun trưởng thành có tuổi thọ khoảng 10 năm.
Giun trưởng thành có tuổi thọ khoảng 10 năm.
Ấu trùng có thể tồn tại ở hệ tuần hoàn máu tới 10 tuần rồi sẽ chết nếu không được muỗi hút.
3. Bệnh học
3.1. Triệu chứng lâm sàng
Diễn biến của bệnh qua 3 thời kỳ:
Thời kỳ này kéo dài 5 - 7 năm
- Thời kỳ phát bệnh: Bệnh nhân sốt, sau vài ngày viêm hệ bạch huyết, xuất hiện đường viêm đỏ, đau dọc theo bạch mạch, thường là mặt trong chi dưới. Các đợt viêm hệ bạch huyết ngày càng tăng. Các hạch bẹn, hạch nách hoặc các bạch mạch nổi cứng.
- Đối với Wuchereria bancrofti hay xuất hiện đái ra dưỡng chấp do mạch bạch huyết vỡ vào bể thận, nước tiểu trắng đục như nước vo gạo, để lâu không lắng, đôi khi lẫn máu. Trường hợp lượng dưỡng chấp trong nước tiểu nhiều, để lâu nước tiểu có thể đông lại. Hiện tượng phù voi dần xuất hiện ở bộ phận sinh dục. Còn đối với Brugia malayi hay gây phù voi ở chi, thường gặp là phù chi dưới. Thời kỳ này có thể kéo dài nhiều năm, bệnh nhân gầy sút nhanh. Xét nghiệm máu có thể thấy ấu trùng giun chỉ.
- Thời kỳ di chứng: Bệnh nhân không còn các đợt viêm bạch mạch cấp nhưng các hạch bạch huyết to lên thường xuyên. Có các đợt phù một chân hoặc một tay hoặc phù sinh dục, phù cứng. Thời kỳ này ít khi tìm thấy ấu trùng ở máu ngoại vi.
4. Chẩn đoán
4.1. Chẩn đoán lâm sàng
Chỉ có giá trị khi có biến chứng hoặc di chứng. Giai đoạn đầu dễ bị bỏ qua hoặc nhầm với các bệnh khác.
4.2. Chẩn đoán xét nghiệm 4.2.1.Xét nghiệm máu tìm ấu trùng giun chỉ: Nguyên tắc là lấy máu về ban đêm (từ 24 giờ đến 2 giờ sáng) làm tiêu bản giọt dầy nhuộm giemsa hoặc soi tươi tìm ấu trùng giun chỉ là phương pháp thông dụng nhất. Nhưng nếu mật độ ấu trùng trong máu ít thì sác xuất dương tính sẽ thấp. Trong trường hợp đó cần áp dụng câc phương phá tập trung ấu trùng như (Knote, Harris, phương pháp màng lọc Millipore
4.2.1. Xét nghiệm nước tiểu tìm ấu trùng
Trong trường hợp bệnh nhân đái ra dưỡng chấp, lấy nước tiểu ly tâm lấy cặn nhuộm soi.
[i]4.2.3.Chẩn đoán miễn dịch học[/i]
Phát hiện kháng thể trong huyết thanh bằng kỹ thuật miễn dịch men ELISA hoặc miễn dịch huỳnh quang. 5. Dịch tễ học - Bệnh giun chỉ tập trung nhiều ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam, tuy nhiên đã phát hiện thấy nhiều vùng miền trung Trung Bộ có bệnh giun chỉ bạch huyết.
Bệnh thường khu trú thành từng điểm nhỏ, từng thôn, xã.
- Ở vùng đồng bằng Bắc bộ đa số là B.malayi (80-95%), chủ yếu ở vùng trồng lúa nước như ở vùng châu thổ sông Hồng, 4 tỉnh trọng tâm là Hải Dương, Hà Nam, Thái Bình, Hưng Yên.
- Ở các tỉnh Nam trung bộ bênh tìm thấy ở các tỉnh như: Nghệ An. Quảng Bình Khánh Hòa - Miền Nam bộ theo điều tra mới chưa phát hiện được bệnh giun chỉ bạch huyết.
Tỉ lệ ở vùng đồng bằng mắc 1 -3 %, vùng trung du 1 - 2%, vùng miền núi hiếm gặp 0-1% nhưng phân bố rất không đều . Không có sự khác biệt giữa nam và nữ, bệnh nhiễm cao ở lứa tuổi 30-40.
Muỗi truyền bệnh giun chỉ chủ yếu ở Việt Nam là giống Mansonia, muỗi hút máu về ban đêm, sinh sống ở các hồ ao có bèo vì bọ gậy phải cắm ống thở vào dễ bèo để lấy oxy trong không khí. Mansonia truyền bệnh giun chỉ Brugia malayi cũng là giun chỉ chủ yếu ở Việt nam. Muỗi truyền giun chỉ W.bancrofti chủ yếu là Culex và Anophen.
– ở vùng đồng bằng Bắc bộ đa số là B.malayi (80-95%), chủ yếu ở vùng trồng lúa nước như ở vùng châu thổ sông Hồng, 4 tỉnh trọng tâm là Hải Dương, Hà Nam, Thái Bình, Hưng Yên. ở các tỉnh Nam bộ theo điều tra những năm gần đây mới chỉ phát hiện được W.bancrofti
- Muỗi truyền bệnh giun chỉ chủ yếu ở Việt Nam là giống Mansonia, muỗi hút máu về ban đêm, sinh sống ở các hồ ao có bèo. Mansonia truyền bệnh giun chỉ Brugia malayi cũng là giun chỉ chủ yếu ở đồng bằng bắc bộ.
Ngoài ra, muỗi culex như Culex quinque fasciatus cũng truyền được bệnh giun chỉ.
6. Phòng bệnh Cần phát hiện sớm và điều trị triệt để cho bệnh nhân vì đó là nguồn bệnh nếu không được phát hiện sẽ dễ làm lây lan. Đây là biện pháp phòng bệnh chủ yếu. Cần chú ý phòng chống muỗi đốt và diệt muỗi bằng các phương pháp nằm màn, tẩm màn bằng hoá chất diệt muỗi. Đồng thời kết hợp với diệt bọ gậy bằng các phương pháp sinh học, cơ học.
Hiện nay ở nước ta đã có chương trình loại trừ bệnh giun chỉ bạch huyết với mục tiêu loại trừ giun chỉ bạch huyết vào năm 2010
Trên thế giới Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đưa ra chương trình loại trừ bệnh giun chỉ trên toàn cầu với mục tiêu hạ tỷ lệ nhiễm xuống dưới 0,1% vào năn 2020, phối hợp các biện pháp trên với: điều trị toàn dân tại các địa phương có bệnh giun chỉ lưu hành bằng DEC phối hợp với Albbendazol
7. Điều trị
– Diệt giun chỉ thể ấu trùng: Hiện nay, thuốc được dùng rộng rãi, an toàn và có hiệu quả cao là DEC (dietyl carbamazine).
– Các thuốc diệt thể trưởng thành hiện nay không được dùng vì độc cho bệnh nhân – Điều trị triệu chứng và biến chứng: Hạ sốt, giảm đau, kháng viêm. Trường hợp phù voi không điều trị nội khoa được có thể điều trị ngoại khoa, phối hợp điều trị chống nhiễm trùng thứ phát.
Ngoài thuốc hoá học tổng hợp, có thể dùng nước sắc lá cây dừa cạn để uống, tác dụng tốt với trường hợp đái ra dưỡng chấp.