03-06-2012, 10:08 AM
Trong hoạt động xúc tác, có những chất tác động làm tăng cường hoạt độ của enzym, gọi là chất hoạt hoá. Nhưng lại có những chất làm giảm hoặc tê liệt hoạt động của enzym, gọi là chất ức chế.
Nguyên nhân của hiện tượng này có dính líu tới trung tâm hoạt động của enzym và cấu trúc phân tử (nhất là cấu trúc bậc 3) của protein - enzym.
- Các chất hoạt hoá enzym như một số ton kim loại Cu2+, Zn2-, Ca2+, Mn2+, Mg2+, Co2+...
- Chất Có tác động ức chế enzym thường là chất độc đối với cơ thể.
1. Giải thích cơ chế hoạt hoá enzym
Trong cơ thể enzym được sản sinh ở các cơ quan hay các tuyến. Những enzym này ban đầu thường ở dạng chưa hoạt động gọi là chuẩn enzym (proferenzyme) muốn hoạt động được enzym phải nhờ chất hoạt hoá.
Có 3 kiểu hoạt hoá:
1.1. Các con kim loại hoá trị 2 tham gia vào cấu tạo trung tâm hoạt động để vận chuyển điện tử hoặc làm cầu nối để gắn cơ chết vào enzym
1.2. Cắt một đoạn enzym đạo trung tâm hoạt động của enzym
Nó mất đi một đoạn peptid ở phía N cuối có thể là do tác dụng của acid
1.3. Cấu tạo tại trung tâm hoạt động của enzym
Enzym trypsinogen được enterokinase tá tràng tác động làm mất một đoạn peptid (liên kết hydro bị đứt) mạch còn lại sẽ co rút cấu tạo và cấu trúc bậc 2, 3 có trung tâm hoạt động mới là se rin và histidin
2. Giải thích cơ chế ức chế của enzym
Quá trình ức chế của enzym là quá trình trung tâm hoạt động bị phong bế. Hiện tượng ức chế của enzym là hiện tượng rất phổ biến trong đời sống sinh vật, 90% ngộ độc là do enzym bị ức chế.
Những chất thường gây ra hiện tượng ức chế enzym là kim loại nặng, hợp chất hữu cơ và vô cơ
Ví dụ: Ngộ độc HCN do ăn sắn vì anion CN liên kết chặt chẽ với Fe3+ của hệ thống Cytocrom - cytocrom oxydase.
Fe3+ đã bị liên kết với CN thành Fe2+CN nên điện tử không truyền đi được và sự hô hấp của mộ bào bị gián đoạn.
Giải độc: Tiêm vào cơ thể chất oxy-hoá mạnh như xanh metylen hoặc Na2S2O3. Xanh metylen biến Hb thành mệt- hemoglobin (Hb.OH).
Cytorom ở dạng Fe2+OH không bền nên dễ phân huỷ thành Fe3+ và H2O. còn Hb.CN lược đưa về gan và khử độc dưới dạng:
Nọc ong có enzym phá huỷ NAD (mà NAD là nhóm ghép của enzym oxy - hoá hoàn nguyên) nên gây cho động vật bị ong đốt hiện tượng ngạt. Cảm giác đau là do các chất acid không được oxy - hoá tích lại kích thích ngọn thần kinh gây nên.
Một số chất khác như Stilbamidin hoặc curare thể hiện tính ức chế bằng cách bịt trung tâm hoạt động của enzym axetylcholin esterase.
Curare cũng như stilbamidin có 2 nhóm muôn cách nhau 13 - 1 sao tương ứng quãng cách của đoạn mang điện tích âm trong trung tâm hoạt động của enzym do đó chất này dễ bịt kín.
Nguyên nhân của hiện tượng này có dính líu tới trung tâm hoạt động của enzym và cấu trúc phân tử (nhất là cấu trúc bậc 3) của protein - enzym.
- Các chất hoạt hoá enzym như một số ton kim loại Cu2+, Zn2-, Ca2+, Mn2+, Mg2+, Co2+...
- Chất Có tác động ức chế enzym thường là chất độc đối với cơ thể.
1. Giải thích cơ chế hoạt hoá enzym
Trong cơ thể enzym được sản sinh ở các cơ quan hay các tuyến. Những enzym này ban đầu thường ở dạng chưa hoạt động gọi là chuẩn enzym (proferenzyme) muốn hoạt động được enzym phải nhờ chất hoạt hoá.
Có 3 kiểu hoạt hoá:
1.1. Các con kim loại hoá trị 2 tham gia vào cấu tạo trung tâm hoạt động để vận chuyển điện tử hoặc làm cầu nối để gắn cơ chết vào enzym
1.2. Cắt một đoạn enzym đạo trung tâm hoạt động của enzym
Nó mất đi một đoạn peptid ở phía N cuối có thể là do tác dụng của acid
1.3. Cấu tạo tại trung tâm hoạt động của enzym
Enzym trypsinogen được enterokinase tá tràng tác động làm mất một đoạn peptid (liên kết hydro bị đứt) mạch còn lại sẽ co rút cấu tạo và cấu trúc bậc 2, 3 có trung tâm hoạt động mới là se rin và histidin
2. Giải thích cơ chế ức chế của enzym
Quá trình ức chế của enzym là quá trình trung tâm hoạt động bị phong bế. Hiện tượng ức chế của enzym là hiện tượng rất phổ biến trong đời sống sinh vật, 90% ngộ độc là do enzym bị ức chế.
Những chất thường gây ra hiện tượng ức chế enzym là kim loại nặng, hợp chất hữu cơ và vô cơ
Ví dụ: Ngộ độc HCN do ăn sắn vì anion CN liên kết chặt chẽ với Fe3+ của hệ thống Cytocrom - cytocrom oxydase.
Fe3+ đã bị liên kết với CN thành Fe2+CN nên điện tử không truyền đi được và sự hô hấp của mộ bào bị gián đoạn.
Giải độc: Tiêm vào cơ thể chất oxy-hoá mạnh như xanh metylen hoặc Na2S2O3. Xanh metylen biến Hb thành mệt- hemoglobin (Hb.OH).
Cytorom ở dạng Fe2+OH không bền nên dễ phân huỷ thành Fe3+ và H2O. còn Hb.CN lược đưa về gan và khử độc dưới dạng:
Nọc ong có enzym phá huỷ NAD (mà NAD là nhóm ghép của enzym oxy - hoá hoàn nguyên) nên gây cho động vật bị ong đốt hiện tượng ngạt. Cảm giác đau là do các chất acid không được oxy - hoá tích lại kích thích ngọn thần kinh gây nên.
Một số chất khác như Stilbamidin hoặc curare thể hiện tính ức chế bằng cách bịt trung tâm hoạt động của enzym axetylcholin esterase.
Curare cũng như stilbamidin có 2 nhóm muôn cách nhau 13 - 1 sao tương ứng quãng cách của đoạn mang điện tích âm trong trung tâm hoạt động của enzym do đó chất này dễ bịt kín.