04-18-2012, 01:12 PM
Nội dung Bacteriophage được gọi tắt là phage Năm 1898, Gamaleia người Nga phát hiện thấy hiện tượng các vi khuẩn dịch hạch nuôi cấy trên môi trường rồi không thấy vi khuẩn nữa.
Năm 1915, Twort phát hiện ra hiện tượng này trên cầu khuẩn và xác định nguyên nhân là Bacteriophage
Năm 1917, Herelle phát hiện được phage trên vi khuẩn lỵ. Sau đó người ta đã phát hiện được các loại phage trên các loại vi khuẩn.
1. Định nghĩa
Bacteriophage là virus mà tế bào cảm thụ là vi khuẩn, nó là virus của vi khuẩn và có khả năng gây bệnh cho vi khuẩn.
2. Những đặc điểm sinh học của phage
2.1. Cấu trúc
Phage có nhiều hình dạng ( hình sợi, hình cầu… ) nhưng điển hình là cấu trúc hỗn hợp. Cấu trúc hỗn hợp vừa có cấu trúc hình khối, vừa có cấu trúc hình xoắn.
ất cả các loại phage cấu trúc hỗn hợp gồm 3 phần:
- Đầu: Hình khối lục giác được cấu tạo bởi nhiều capsomer, bên trong chứa acid nucleic hầu hết là ADN, một số rất ít chứa ARN. Acid nucleic là một sợi rất dài chiếm tới 40% trọng lượng cơ thể. Đầu có chiều rộng khoảng 65nm và chiều dài khoảng 95nm.
- Đuôi: Đuôi có cấu trúc dạng hình xoắn dài khoảng 95nm nối tiếp với phần đầu. Đuôi có 2 lớp: lớp bên trong cứng hình ống thông với khoang đầu. Lớp ngoài hình xoắn có chiều rộng khoảng 20nm cấu tạo bởi protein và co bóp được theo chiều dọc như lò so. Phía cuối đuôi là tấm đuôi có 6 cạnh đều nhau rộng khoảng 35nm
- Lông đuôi: Mỗi phage có 6 lông đuôi, mỗi lông đuôi dài 150nm được gắn vào mỗi đỉnh của tấm đuôi. Lông đuôi tác dụng giúp phage bám vào tế bào vi khuẩn.
Phage dưới KHV điện tử
2.2 Sự nhân lên của phage
Khi phage gặp vi khuẩn tương ứng, phage sẽ cố định vào các điểm tiếp nhận của vách tế bào bằng những sợi lông đuôi. Mỗi phage chỉ cố định vào một loại vi khuẩn vì phage có tính chất đặc hiệu typ đối với vi khuẩn. Sau khi bám vào vi khuẩn, phage dùng men lysozym phá màng tế bào vi khuẩn. ống cứng bên trong đuôi được cắm vào nguyên sinh chất tế bào vi khuẩn nhờ sự co lại của vỏ bên ngoài đuôi. Sau đó AN ( ADN hoặc ARN ) ở đầu phage được bơm vào bên trong tế bào vi khuẩn. Vỏ của phage ở bên ngoài rồi tự tiêu huỷ. ở trong tế bào vi khuẩn, AN của phage sẽ chỉ huy mọi hoạt động của tế bào vi khuẩn để tổng hợp các thành phần cấu trúc của phage, các thành phần này sẽ lắp ráp thành những phage hoàn chỉnh. Cuối cùng tế bào bị phá vỡ giải phóng các phage thường ở phút thứ 25. Mỗi tế bào vi khuẩn có thể giải phóng từ một trăm đến vài trăm phage.
3. Phân loại phage
3.1. Phage độc lực
Là phage khi xâm nhập vào tế bào vi khuẩn thì chúng có khả năng nhân lên và phá huỷ tế bào vi khuẩn đó
3.2. Phage ôn hoà
Trong một số trường hợp, sau khi acid nucleic của phage vào tế bào vi khuẩn thì nó gắn vào genom của vi khuẩn, tồn tại và phân chia cùng genom của vi khuẩn. Trường hợp này được gọi là prophage (tiền phage). Khi gặp điều kiện thích hợp thì acid nucleic của phage được hoạt hoá, chỉ huy qúa trình tổng hợp các phage mới gây bệnh cho tế bào vi khuẩn như phage độc lực.
4. ứng dụng của phage
4.1. Chẩn đoán và định loại vi khuẩn
Mỗi phage có thể nhân lên đặc hiệu ở một loại vi khuẩn nhất định và gây bệnh cho vi khuẩn đó. Trong định loại vi khuẩn đặc biệt trong điều tra dịch tễ, người ta dùng phage đã biết trước cho tiếp xúc với vi khuẩn đang cần xác định. Nếu đặc hiệu thì tế bào vi khuẩn sẽ bị phage gây bệnh và phá huỷ.
4.2. Phòng và điều trị các bệnh do vi khuẩn
Trong một số bệnh dịch do vi khuẩn gây ra, người ta cho những người đang mắc bệnh hoặc có nguy cơ nhiễm vi khuẩn uống phage đặc hiệu của vi khuẩn đó để phòng và điều trị bệnh. Ví dụ như bệnh lỵ trực khuẩn 4.3. Phát hiện phóng xạ Những tế bào vi khuẩn có prophage thường bị ly giải khi có tác dụng của chất phóng xạ. Vì vậy người ta dùng những tế bào đó cho vào môi trường hoặc những chất nghi nhiễm phóng xạ, nếu tế bào vi khuẩn bị ly giải có nghĩa là môi trường có chất phóng xạ.