![]() |
Xét nghiệm nội tiết trong chẩn đoán và điều trị vô sinh nam - Phiên bản có thể in +- Diễn đàn xét nghiệm đa khoa (https://xetnghiemdakhoa.com/diendan) +-- Diễn đàn: ...:::THẢO LUẬN CHUYÊN NGÀNH:::... (https://xetnghiemdakhoa.com/diendan/forum-8.html) +--- Diễn đàn: Xét nghiệm mới (https://xetnghiemdakhoa.com/diendan/forum-90.html) +--- Chủ đề: Xét nghiệm nội tiết trong chẩn đoán và điều trị vô sinh nam (/thread-96.html) |
Xét nghiệm nội tiết trong chẩn đoán và điều trị vô sinh nam - tuyenlab - 02-09-2012 ![]() Nội tiết tố sinh dục nam bao gồm 3 chất chủ yếu là FSH, LH và testosterone. Sự điều hòa của 3 chất này trong hệ trục hạ đồi- tuyến yên- tinh hoàn đảm bảo cho quá trình sinh tinh bình thường (xin xem bài “Trục hạ đồi- tuyến yên- tinh hoàn và khả năng sinh sản ở nam giới”). Giá trị bất thường tăng hay giảm của 3 chất này đều có thể chỉ ra có rối loạn trong quá trình sinh tinh, từ đó cho thấy tầm quan trọng của xét nghiệm nội tiết trong chẩn đoán các bệnh lý vô sinh nam.
XÉT NGHIỆM NỘI TIẾT NAM (theo khuyến cáo của WHO 2000): - Chỉ định : ở những bệnh nhân có mật độ tinh trùng nhỏ hơn 10 triệu/ml, hoặc khi dấu hiệu lâm sàng cho thấy có bất thường về nội tiết. - Các xét nghiệm nội tiết : Đa số chỉ cần làm 2 xét nghiệm là testosterone và FSH cũng đủ để chẩn đoán các trường hợp lâm sàng.
- Đo nồng độ FSH huyết thanh để phân biệt giữa cường hạ đồi và suy sinh dục có hoặc không kèm suy hạ đồi. Xét nghiệm này đuợc chỉ định cho tất cả các bệnh nhân không có tinh trùng và nếu như không tìm thấy bất kỳ nguyên nhân gì làm suy quá trình sinh tinh, FSH trong giới hạn bình thường gợi ý không tinh trùng do tắc nghẽn. Tuy nhiên, cũng không thể loại trừ trường hợp quá trình sinh tinh bị ngưng trệ (arrested spermatogenesis) không có tinh trùng trưởng thành. Nếu FSH tăng cao có thể là do một sự thiếu sót nghiêm trọng trong quá trình sinh tinh bao gồm hội chứng chỉ có tế bào sertoli (bất sản tế bào mầm), hay quá trình sinh tinh bị ngưng lại ở giai đoạn tinh nguyên bào hoặc tinh bào bậc I. Ở một số bệnh nhân, quá trình sinh tinh chỉ bị ngưng trệ ở một số ống sinh tinh. Do đó, chỉ dựa vào FSH, ta không thể dám chắc 100% có tinh trùng trong tinh hoàn hay không. Ở những người có tinh hoàn teo vừa hay nặng và có dấu hiệu suy androgen, thì FSH cao gợi ý sự tổn thương nguyên phát tinh hoàn làm suy yếu quá trình sinh tinh và chức năng của tế bào leydig. Nếu FSH không tăng ở những bệnh nhân này thì có thể do suy hạ đồi-tuyến yên hay u tuyến yên. ![]() Ở những bệnh nhân có thể chẩn đoán được nguyên nhân vô sinh và có tinh trùng trong mẫu xuất tinh thì không cần thiết phải xét nghiệm FSH với mục đích phân loại chẩn đoán. Tuy nhiên, trong trường hợp này FSH cần thiết cho tiên lượng của bệnh, ví dụ như ở bệnh nhân thiểu tinh nặng có dãn tĩnh mạch thừng tinh và FSH tăng cao, thì tiên lượng cải thiện tinh trùng sau điều trị tĩnh mạch dãn là rất thấp.
- Đo nồng độ inhibin B huyết thanh cùng với FSH có lẽ là cách tốt nhất để đánh giá sự sinh tinh, giúp phân biệt bất thường mật độ tinh trùng do tại tinh hoàn hay không do tại tinh hoàn. - Đo LH huyết thanh không cần thường quy trong chẩn đoán vô sinh nam. Các trường hợp suy sinh dục- suy hạ đồi có thể dựa trên testosterone thấp kèm theo FSH bình thường hoặc thấp. Nếu lâm sàng suy androgen là do suy tinh hoàn nguyên phát thì FSH sẽ tăng. Nhiều tác giả đề nghị nếu tỉ số LH/testosterone mà cao thì có thể cókháng tế bào Leydig và đưa đến giảm khả năng sinh sản. Nếu testosterone thấp mà LH không tăng thì gợi ý có sự ức chế chức năng hạ đồi- tuyến yên do sự hoạt hóa hormon như là đồng hóa steroid hay có estrogen giả tạo. - Đo nồng độ testosterone huyết thanh là cần thiết ở những bệnh nhân có dấu hiệu suy androgen kèm FSH không tăng. Những trường hợp này, nếu testosterone thấp chỉ ra rằng có suy sinh dục-thiếu hormon hướng sinh dục do suy tuyến yên hay suy hạ đồi nguyên phát. - Prolactin cần xét nghiệm ở những bệnh nhân có rối loạn tình dục như giảm khả năng tình dục hay bất lực, hoặc có dấu hiệu suy androgen, có testosterone thấp và FSH không tăng. Ở những bệnh nhân có tăng prolactin thì phải xét nghiệm lại prolactin vài lần, vì chỉ một stress nhỏ cũng có thể làm tăng prolactin.
Các test kích thích : Dùng để xác định tình trạng của trục hạ đồi- tuyến yên- tinh hoàn bao gồm test kích thích bằng GnRH và hCG. Test GnRH để lượng giá khả năng tiết FSH và LH của tuyến yên. Tiêm 1 liều duy nhất 100g GnRH. Đo nồng độ LH trước và sau khi tiêm. Nếu nồng độ LH tăng gấp đôi so với trước khi tiêm là bình thường (Santen 1987). Trong trường hợp giảm tiết GnRH nội sinh, tuyến yên tiết LH và FSH không hoàn hảo dẫn đến kém đáp ứng với GnRH ngoại sinh. Do đó nếu nồng độ LH thấp sau khi tiêm GnRH thì không thể phân biệt được là do suy hạ đồi hay do bệnh lý ở tuyến yên.
Để lượng giá khả năng sản xuất testosterone của tinh hoàn, người ta dùng test hCG. Tiêm bắp 1500-4000 IU hCG sau khi đã đo nồng độ testosterone huyết thanh. Nếu sau tiêm 5 ngày, nồng độ testosterone tăng gấp đôi so với trước khi tiêm thì được xem là bình thường. ![]() Phân loại chẩn đoán :
Điều trị :
Có 2 cách trị liệu bằng androgen: testosterone liều thấp và testosterone liều cao. Testosterone liều thấp được cho 10-50mg methyltestosterone/ngày, hoặc 50-70mg mesterolone/ngày trong tối thiểu 3 tháng để bổ sung sự thiếu hụt testosterone nội sinh và kích thích quá trình sinh tinh. Testosterone liều cao hay dùng là loại testosterone enanthate, 200-250mg tiêm bắp mỗi 2 tuần. Tuy nhiên với liều này cho thấy ức chế LH và sự sinh tinh (Peterson 1968, Keough 1976, Franchimont 1975). Trị liệu gonadotropin : Người ta đã thử điều trị bệnh nhân bị thiểu tinh bằng gonadotropin giống như các bệnh nhân bị suy sinh dục- suy hạ đồi, tuyến yên nhưng không thành công (Rosenberg 1976, Sokol 1982) Trị liệu bằng antiestrogen (clomiphene, tamoxifen) : Được dùng phổ biến nhất trong điều trị thiểu tinh. Cơ chế tác dụng là ức chế cạnh tranh với estrogen bằng cách chiếm giữ các thụ thể của estrogen ở hạ đồi và tuyến yên, làm trở ngại phản hồi âm của steroid sinh dục lên hạ đồi và tuyến yên, đưa đến tăng tiết GnRH, kích thích tuyến yên tiết gonadotropin làm tăng sản xuất testosterone, kích thích sự tạo thành và trưởng thành của tinh trùng. Ngoài ra, loại thuốc này còn có tác dụng trực tiếp lên tinh hoàn, làm ngăn cản sự ức chế của estradiol lên chức năng của tế bào leydig, từ đó cũng làm tăng sự sản xuất tinh trùng (Adashi 1985). ![]() Tóm lại, sự khởi phát quá trình sinh tinh bình thường ảnh hưởng bởi LH và FSH, mặc dù chỉ mình testostreone ở nồng độ cao cũng có thể khởi phát được. Tuy nhiên, tác dụng phi sinh lý này không thể áp dụng được vào lâm sàng. Mục đích của điều trị là tạo được nồng độ testosterone tại tinh hoàn đủ cao cần thiết cho quá trình sinh tinh. Cuối cùng nên nhớ rằng cả LH, FSH, và testosterone đều cần thiết cho quá trình sinh tinh bình thường ngay từ lúc dậy thì. Tài liệu tham khảo: 1. Leon speroff 1999 “Male Infertility” Clinical Gynecologic Endocrinology and Infertility, Lippincott Williams & Wilkins. 2. G.F Weinbauter, J. Gromoll, M. Simoni, E. Nieschlag 2000 “Physicology of Testicular Funtion” E. Nieschlag and H.M. Behre, Andrology, Springer. 3. Rebecca Z .Sokol,1997, Endocrine assessment and hormone tretment of the infertile male .GraceM .Centola,Evalution and treatment of the infertile male. Cambridge University press. |